Như đã kể trên, từ ca ra bộ tới tuồng hát cải lương, lối ca hát mới chỉ cần một khoảng thời gian 7 năm để tự khẳng định cho mình một phong cách ca diễn mới. Từ bước đầu hình thành, sân khấu cải lương đã chia thành hai dòng sân khấu lớn: Tuồng Tàu và tuồng Tây mà người dân mê xem hát thường gọi là tuồng cổ và tuồng xã hội. Ca ra bộ thì chủ yếu là ca, người ca sĩ phải có giọng tốt, lối ca hay, chỉ cần ca thật hay để diễn đạt tình cảm của bài ca, còn điệu bộ thì chỉ là những cử chỉ min

Ngũ đại gia của sân khấu cải lương - Kỳ 2

Một Thế Giới | 20/06/2015, 08:38

Như đã kể trên, từ ca ra bộ tới tuồng hát cải lương, lối ca hát mới chỉ cần một khoảng thời gian 7 năm để tự khẳng định cho mình một phong cách ca diễn mới. Từ bước đầu hình thành, sân khấu cải lương đã chia thành hai dòng sân khấu lớn: Tuồng Tàu và tuồng Tây mà người dân mê xem hát thường gọi là tuồng cổ và tuồng xã hội. Ca ra bộ thì chủ yếu là ca, người ca sĩ phải có giọng tốt, lối ca hay, chỉ cần ca thật hay để diễn đạt tình cảm của bài ca, còn điệu bộ thì chỉ là những cử chỉ min

Từ ca ra bộ đến cải lương

Hát cải lương thì bài ca là bài hát mang tính sân khấu biểu diễn. Trong hát cải lương, ca và diễn quan trọng như nhau, có những trường hợp phải múa, phải có những động tác hình thể diễn đạt tâm trạng nhân vật mà không cần lời nói, có khi nói lời thoại bình thường mà hiệu quả cao hơn ca. Từ ca ra bộ tiến tới hát cải lương, nghệ thuật cải lương đã chịu nhiều ảnh hưởng của hát bội và của các loại hình sân khấu khác như Hý khúc Trung Quốc, kịch của Pháp, của nước Anh. Hát cải lương, nghệ sĩ nào ca hay thì được gọi là kép ca hay đào ca, kép mùi hay đào mùi. Những người không có giọng tốt nhưng diễn hay thì là đào kép diễn, kép độc, kép lẳng, hề. 
Người nước ngoài muốn tìm hiểu về văn hóa - nghệ thuật Việt Nam, khi nghiên cứu hát bội và cải lương, sẽ rất thích thú khi thấy rằng cùng một đề tài sân khấu, khi diễn trên sân khấu hát bội thì mang một nội dung phong kiến, với những đạo đức khắt khe gò bó, nhưng khi phát triển thành một vở ca kịch cải lương thì nội dung mang hơi thở thời đại, phát triển theo chiều hướng cởi mở hơn, tiến bộ hơn, phù hợp với tâm tình và ý nguyện của mọi tầng lớp khán giả mới. 
Hát bội và cải lương có nhiều dị biệt: 
Tuồng hát bội thường đề cập đến đạo đức Nho giáo, Phật giáo theo quan niệm phong kiến với một trật tự xã hội khắt khe: Quân, sư, phụ. Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu. 
Tuồng cải lương phá bỏ cái vỏ phong kiến đó, đề cao tính Người và tình Người. 
Yêu cha mẹ vì công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra… Yêu mến thầy dạy vì không thầy đố mày làm nên. Muốn sang phải bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy. Từ chỗ yêu thương cha mẹ, kính trọng biết ơn thầy, tiến đến tình cảm nhớ ơn tổ tiên, thương yêu làng mạc, ăn ở có nghĩa nhân với bạn bè khiến cho nội dung tuồng cải lương gần gũi với cảm quan của khán giả, với tính nhân ái, lòng nhân hậu của người Việt Nam. 
cai luong, san khau cai luong, ngu dai gia
Bà bầu Thơ và gia đình cố NSƯT Thanh Nga.
Trong tuồng hát bội, người phụ nữ phải giữ đạo tam tòng tứ đức: Ở nhà phải theo cha, lấy chồng phải theo chồng, chồng chết theo con và phải ở góa suốt đời thủ tiết. 
Trong tuồng cải lương thì quan niệm hạnh phúc và đạo đức là thuận vợ, thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn, là chung thủy, là chân tình cả về phía vợ cũng như phần chồng. 
Về văn chương, tuồng hát bội dùng văn biền ngẫu, văn vần, các thể thơ ngũ ngôn, thất ngôn hoặc song thất lục bát với nhiều chữ Nho và điển tích khiến cho các tầng lớp khán giả xem khó hiểu, mất đi cảm hứng. Hóa trang và diễn xuất theo lối cách điệu, tượng trưng, nhiều khán giả cho là ngây ngô, quá đáng. 
Tuồng cải lương trong những thập niên 20-30 còn chịu ảnh hưởng nặng của hát bội nên văn chương cũng có phần bị gò bó, cũng có nhiều điển tích Tàu, chữ Nho, nhưng cải lương bắt mạch được cảm quan của khán giả và không bị gò bó vì những quy luật của nghệ thuật hát bội nên cải lương cải cách lối viết tuồng, cách trang trí, lối ca, lối diễn, để dần dần gần gũi với cuộc đời thường, giúp cho khán giả dễ hiểu, dễ bị lôi cuốn, thích thú với tuồng tích và yêu mến diễn viên. Các vở tuồng có các tựa đề như: Bội phu thiên xử, Châu Trần Tiết Nghĩa, Tư Sinh Tử, Tối Độc Phụ Nhơn Tâm của những năm 20-30 đã biến mất, thay vào đó những tựa tuồng dễ hiểu và bình dân hơn như: Tội của ai, Tiếng nói trái tim, Khi người điên biết yêu… 
Chúng ta biết rằng nghệ thuật hát cải lương được truyền dạy, đào tạo diễn viên bằng cách truyền nghề. Thời Việt Nam Cộng hòa, các giáo sư phân khoa kịch nghệ trường Quốc gia Âm nhạc là những nghệ sĩ tài danh như: Năm Châu, Phùng Há, Duy Lân, Năm Nở, Kim Cúc, Ngọc Ánh, Hai Khuê, Sáu Tửng. Chương trình dạy diễn xuất và ca hát là đều dựa theo trích đoạn các tuồng nổi tiếng như: Đoạn tuyệt, Trường hận, Khi người điên biết yêu… mà các giáo sư chính là những nghệ sĩ đã từng thủ diễn thành công các vai, các nhân vật tuồng đó, nên đem kinh nghiệm bản thân truyền dạy lại cho các học viên kịch nghệ. Cách truyền nghề nầy là thầy ca, diễn một lớp tuồng và học viên bắt chước theo. Thầy dạy bẻ tay, bẻ chân, luyện giọng, dạy cách ca, cách nói, cách nhả chữ, luyến láy, ngân nga. 
Ngũ đại gia sân khấu cải lương
Sau 1975, các trường nghệ thuật sân khấu hay các lớp đào tạo diễn viên của các đoàn hát Trần Hữu Trang cũng dùng phương pháp truyền nghề như kể trên và đặt tên là phương pháp: Thị phạm. 
Có một loại trường dạy nghề hát mà không mang danh nghĩa Trường Nghệ thuật, nhưng kết quả đào tạo thật là xuất sắc, đó là cách truyền nghề trong các gia đình nghệ sĩ qua các thế hệ ông, cha, đến các con cháu. 
Sân khấu cải lương tồn tại và phát triển được gần trăm năm nay cũng nhờ vào sự tạo dựng vững chắc của nhiều gia đình nghệ sĩ hát bội và cải lương, những người đã tận tâm tận lực, sống chết vì nghề nghiệp và nuôi dạy con cái gìn giữ lấy nghề nghiệp. 
cai luong, san khau cai luong, ngu dai gia
Gia đình NSND Thành Tôn
Văn học Tàu có cái hay là họ cô đọng lại trong một cái tên hay một câu ngắn gọn mà tóm lược được một ý đồ, một câu chuyện lớn như khi họ nói “Tứ đại mỹ nhân Trung Quốc” thì người đọc truyện Tàu nhớ ngay bốn người đẹp cổ điển của Trung Quốc xa xưa: Tây Thi trầm ngư, Chiêu Quân lạc nhạn, Điêu Thuyền bế nguyệt, Dương Thái Chân tu hoa. “Trầm ngư, Lạc nhạn, Bế nguyệt, Tu hoa” là thẩm mỹ quan của Trung Quốc nói về cái đẹp của mỹ nhân.
Nghệ sĩ cải lương miền Nam cũng được hình thành và phát triển qua các gia đình nghệ sĩ mà tôi gọi là “NGŨ ĐẠI GIA” của sân khấu cải lương miền Nam: 
1. Gia đình nghệ sĩ Minh Tơ. 
2. Gia đình nghệ sĩ Thành Tôn. 
3. Gia đình nghệ sĩ Tư Hélène. 
4. Gia đình nghệ sĩ Năm Nghĩa. 
5. Gia đình nghệ sĩ Năm Phỉ. 
Ngũ đại gia đều có năm, sáu thế hệ theo nghề hát, thể hiện rõ chiều dài của một quá trình phát triển từ sân khấu hát bội truyền thống qua hát bội pha cải lương… qua hát bội Hồ Quảng,… qua cải lương tuồng cổ… cải lương tuồng lịch sử… cải lương xã hội. 
Trong năm đại gia đình nghệ sĩ (Ngũ đại gia), tôi xin đề cập đến đại gia đình nghệ sĩ Năm Phỉ sau cùng, không phải vì bốn đại gia đình đã được kể trên có gì đặc biệt hơn, mà chỉ vì tôi muốn theo trình tự phát triển của các loại hình nghệ thuật sân khấu trong hơn 50 năm qua, để từ đó mà nhớ lại các tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của các nghệ sĩ đã một thời góp tinh thần, tài nghệ và công sức để xây dựng nên một nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam. 
Xin nhắc lại các đặc điểm của mỗi đại gia đình nghệ sĩ: 
1. Gia đình nghệ sĩ Bầu Thắng, Minh Tơ, Thanh Tòng, theo nhu cầu thưởng thức của khán giả đã góp phần “cải lương hóa” nghệ thuật hát bội truyền thống sang nghệ thuật hát bội pha cải lương, tiến tới hình thức hát cải lương tuồng Tàu, cải lương tuồng cổ (dã sử Việt Nam). 
2. Gia đình nghệ sĩ Thành Tôn - Bạch Lê cùng với gia đình Bầu Thắng - Minh Tơ canh tân hóa nghệ thuật hát bội thành loại hình nghệ thuật hát bội pha cải lương, hát tuồng Tàu, hát Hồ Quảng. 
3. Gia đình nghệ sĩ Hai Nuối, Tư Hélène, Kim Hoa, Thanh Hằng, Thanh Ngân, từ loại cải lương tuồng Tàu, sáng lập một trường phái cải lương tuồng kiếm hiệp. Nghệ sĩ Thiện Tâm (tức Ba Tẹt, bầu gánh Phát Thanh) định hình loại tuồng kiếm hiệp với công thức “Đấu poignard, nhảy cửa sổ, ca vọng cổ, phựt đèn màu”. Cùng trong trường phái tuồng cải lương kiếm hiệp có hai đoàn hát lớn mang bảng hiệu “Hậu Tấn - Bảy Cao” và “Hậu Tấn - Năm Nghĩa”. Hậu Tấn - Bảy Cao được đổi bảng hiệu là Đoàn Hoa Sen với chủ trương hát cải lương tuồng chiến tranh hiện đại (được gọi nôm na là loại tuồng “Cắc Bùm”). 
4. Gia đình nghệ sĩ Năm Nghĩa - Bầu Thơ, Thanh Nga, Bảo Quốc, xuất thân từ hệ phái tuồng cải lương kiếm hiệp, sáng lập ra một hệ phái cải lương tuồng xã hội Việt Nam, xã hội cận đại và hiện đại. 
5. Gia đình nghệ sĩ Năm Phỉ - Bảy Nam - Kim Cương, xuất thân từ phong trào ca ra bộ đã góp phần xây dựng loại hình nghệ thuật cải lương tuồng Tây, tuồng Tàu, thoại kịch xã hội, phim ảnh và kịch truyền hình. 
Sân khấu là một loại hình nghệ thuật của nhiều tài năng tổng hợp lại. Từ kịch bản văn học đến người đạo diễn, đến các ngành nghề khác như hội họa, trang trí, hóa trang, y phục, âm nhạc, tất cả đều nhằm làm tăng thêm hiệu quả diễn xuất của nghệ thuật diễn viên.
Nguyễn Phương / Duyên Dáng Việt Nam
Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Một thế giới
Vui buồn nghề muối Bạc Liêu - Bài 2: Ứng dụng kỹ thuật, công nghệ mới
Để làm giàu trên chính đồng muối của gia đình, nhiều diêm dân ở Bạc Liêu đã mạnh dạn đầu tư vật tư, thiết bị cơ giới hóa để sản xuất muối theo hướng công nghệ cao. Hướng đi mới đã khẳng định được hiệu quả, góp phần nâng cao sản lượng lẫn chất lượng hạt muối.
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Ngũ đại gia của sân khấu cải lương - Kỳ 2