Ngày 16.10, Tổ công tác của Thủ tướng đã kiểm tra các bộ, ngành trong việc chậm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu và đơn giản hóa, cắt giảm các điều kiện kinh doanh.
Theo Bộ trưởng Mai Tiến Dũng, các nghị quyết của Chính phủ đã yêu cầu cắt giảm, đơn giản hóa 50% các điều kiện kinh doanh và 50% các thủ tục, mặt hàng xuất nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành. Tuy nhiên, trong tổng số 6.191 điều kiện kinh doanh, đến nay mới cắt được 1.517 điều kiện. Còn trong 9.926 dòng hàng mới cắt giảm được 1.700 dòng hàng.
Theo tổ công tác, tổng cộng còn 2.277 điều kiện cần tiếp tục cắt giảm và so với mốc thời gian Thủ tướng giao phải hoàn thành (15.8.2018) thì đã quá 2 tháng 2 ngày, cần quyết liệt thực hiện.
Ví dụ, Bộ GTVT có các phương án đầu tiên về cắt giảm các điều kiện kinh doanh đã hơn 4 tháng với cam kết cắt giảm 56% điều kiện, nhưng nay vẫn chưa xong. “Chúng ta đã làm được nhiều việc, nhưng hôm nay mời nhiều hiệp hội, doanh nghiệp, chuyên gia để minh chứng việc cắt giảm có thực chất không, hay gom 2 thành 1, hoặc cắt cái nọ mọc cái kia. Tất nhiên tình trạng này nếu có thì cũng là số rất ít, nhưng tinh thần là phải rất minh bạch”, Bộ trưởng cho biết.
Ông Mai Tiến Dũng tiếp tục cho hay hiện danh mục mặt hàng phải kiểm tra chuyên ngành chồng chéo đã giảm cơ bản. Năm 2017, các doanh nghiệp mất 30 triệu ngày công và 14.300 tỉ đồng cho kiểm tra chuyên ngành với trên 100.000 mặt hàng phải kiểm tra, nhưng chỉ phát hiện 0,06% số lô hàng có vi phạm, tức là tỷ lệ rất thấp.
“Trước đây, có mặt hàng do 4 bộ kiểm tra, có mặt hàng do 2-3 cơ quan trong một bộ kiểm tra, nhưng nay mỗi mặt hàng chỉ giao 1 bộ và 1 đơn vị của bộ, không còn chồng chéo như trước”, ông Dũng nói. Ông cũng cho biết thời gian qua đã đẩy mạnh việc công nhận lẫn nhau, công nhận kết quả kiểm tra của các đơn vị, đối tác nước ngoài.
Tổ công tác cho rằng có những bộ còn rất nhiều dòng hàng chưa cắt giảm, cần tiếp tục cắt giảm, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp và y tế. Tuy nhiên, đây là hệ quả từ nhiều nhiệm kỳ trước, cần có thời gian xử lý.
Cùng với đó, việc sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này còn chậm, 3 bộ chưa cải cách mạnh mẽ nội dung này. Trong cơ chế một cửa, mới có 53/283 thủ tục được kết nối, tỷ lệ rất thấp, “chưa nói đến việc đã kết nối nhưng khi làm thủ tục lại tắc, nghẽn do công nghệ một phần nhưng cũng có thể do con người nữa”.
Bộ trưởng Mai Tiến Dũng lưu ý, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực kho bãi logistics đang có rất nhiều ý kiến cho rằng doanh nghiệp bị “gò ép”, cần sửa đổi theo hướng tích cực. “Đừng đưa ra yêu cầu quy mô bao nhiêu, những việc của doanh nghiệp thì đừng can thiệp, đừng quy định xơ cứng. Như quy định kinh doanh gas trước đây phải có bao nhiêu bình gas, nay đã bãi bỏ”, Bộ trưởng nêu rõ.
Đồng thời, Bộ Tài chính cần tích cực xây dựng dự thảo nghị định về kinh doanh dịch vụ đòi nợ thuê với tinh thần phải tiếp tục cắt bỏ các điều kiện. Vì Bộ mới dự kiến cắt bỏ 117 điều kiện, chưa đạt yêu cầu ít nhất 50% như chỉ đạo của Chính phủ.
Còn theo Thứ trưởng GTVT Nguyễn Ngọc Đông, Bộ có tổng số 570 điều kiện, dự kiến xây dựng 9 nghị định để sửa đổi 20 nghị định, cắt giảm 346 điều kiện kinh doanh. Nhưng tới nay, chỉ mới ban hành được 4 nghị định, cắt 109 điều kiện.
Theo Tổ trưởng Tổ công tác, các điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực này còn rất nhiều vấn đề và tinh thần là phải bám sát các quy luật thị trường. Ví dụ quy định xe phải có phù hiệu và khi cấp phù hiệu doanh nghiệp cứ phải lên Sở GTVT. Mặc dù “khi lễ, tết đông khách thì không cần bảo nhà xe cũng chạy, còn khi không có khách thì có phù hiệu xe cũng không chạy”. Và thực tế khi lên Sở xin phù hiệu thì “không gọi điện hẹn trước đừng hòng gặp được”.
Một ví dụ khác, Bộ trưởng cho biết khi ông còn công tác ở địa phương, chính quyền có chủ trương mở các chuyến xe để vận chuyển công nhân từ nơi ở đến khu công nghiệp. Nhưng sở GTVT nói rằng phải có tuyến.
“Phải có tuyến là như thế nào? Là lẽ ra quãng đường chỉ 10km nhưng vẽ ra, bắt người ta chạy 20km. Tôi không đồng ý và yêu cầu phải cho họ đi quãng đường ngắn nhất, xe không vi phạm thì không được kiểm tra, còn nếu vi phạm thì kiểm tra chỗ nào cũng được”, Bộ trưởng nêu thực tế.
“Trong các dự thảo của Bộ, chúng tôi rất thận trọng, các vụ của Văn phòng Chính phủ ngồi lại, rồi lắng nghe các hiệp hội, các chuyên gia, phải nghe hai tai. Nhiều quy định không ổn, như tuyến xe buýt sao cứ phải 100km, thế từ nơi ở đến khu công nghiệp chỉ có 80km thì không cho chạy à?”, Bộ trưởng đặt vấn đề.
Cũng theo Bộ trưởng, các dự thảo nghị định mới của Bộ cho thấy chỉ áp dụng phần mềm trong quản lý với vận tải du lịch và xe hợp đồng, còn kinh doanh vận tải tuyến cố định, xe buýt, xe taxi thì không áp dụng công nghệ.
Ý kiến các hiệp hội doanh nghiệp vận tải tại buổi kiểm tra cũng cho rằng các dự thảo nghị định này chưa tiếp thu nhiều ý kiến góp ý của giới chuyên gia và doanh nghiệp.
Đặc biệt, Tổ trưởng Tổ công tác nêu rõ, sau ngày 30.10, phải có đánh giá về đợt cải cách này, như cắt giảm bao nhiêu thủ tục, điều kiện, đơn giản hóa bao nhiêu, mỗi thủ tục được cắt giảm liên quan tới bao nhiêu lô hàng… Cuối cùng là tiết kiệm được bao nhiêu thời gian, bao nhiêu tiền bạc cho doanh nghiệp.
“Như WB ước tính trong năm 2017, với trên 11 triệu tờ khai, các doanh nghiệp tiết kiệm được trên 200 triệu USD cho thủ tục thông quan, tương đương hơn 4.000 tỉ đồng”, Bộ trưởng cho biết.
Lam Thanh