Với những thông tin sai trái về chủ quyền Biển Đông trong cuốn sách “Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc” do Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin xuất bản, ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ cho rằng quyết định thu hồi cuốn sách là hoàn toàn chuẩn xác và cần thiết, cho dù đã quá muộn.

TS Trần Công Trục: Thu hồi sách xuyên tạc về chủ quyền Biển Đông là cần thiết, dù đã quá muộn

Trí Lâm | 27/12/2017, 06:01

Với những thông tin sai trái về chủ quyền Biển Đông trong cuốn sách “Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc” do Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin xuất bản, ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ cho rằng quyết định thu hồi cuốn sách là hoàn toàn chuẩn xác và cần thiết, cho dù đã quá muộn.

>>Cuốn sách lịch sử với các chi tiết sai trái về chủ quyền Biển Đông

>>'Sẽ thu hồi toàn bộ sách nếu đưa sai trái về chủ quyền Biển Đông'

>>Các nhà sách vẫn rao bán cuốn sách sai trái về chủ quyền Biển Đông

>>Cục xuất bản chính thức thu hồi cuốn sách đưa thông tin sai trái về biển Đông

Trao đổi với phóng viên báo điện tử Một Thế Giới, TS Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ cho rằng nội dung sai sự thật của tác giả bộ sách khi đề cập đến vấn đề biên giới, lãnh thổ của Trung Quốc thời nhà Minh –Thanh, được báo điện tử Một Thế Giớiđăng tải cần thiết phải bị thu hồi để xử lý theo đúng quy định hiện hành. Đó là một quyết định hoàn toàn chuẩn xác và cần thiết, cho dù đã quá muộn.

Thưa ông, trong cuốn sách “Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc” do Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin xuất bản mới đây có chi tiết nói rằng “cương thổ của nước Trung Quốc phía đông đến bờ biển Thái Bình Dương, phía nam đến quần đảo Nam Sa”. Thực chất, tên gọi “Nam Sa” là cách người Trung Quốc “nhận vơ” quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Quan điểm của ông như thế nào về vấn đề này và xin ông cho biết biên giới của Trung Quốc thời nhà Thanh đến khu vực nào?

TS Trần Công Trục: Bộ sách khẳng định như vậy làvõ đoán, bất chấp sự thật lịch sử của quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa Biển Đông. Thực tế lịch sử cho thấy Trung Quốc thời kỳ nhà Thanh, tuy là nước lớn, nhưng trong thời kỳ cận đại lại yếu hèn, bị các cường quốc bắt nạt, xâm chiếm. Vào thời kỳ đó, nền văn minh Trung Hoa là một nền văn minh đại lục kiểu hướng nội, khác với nền văn minh biển mang tính mở cửa.

Theo nhận xét của chính các học giả Trung Quốc, kết quả tất yếu mang tính khuynh hướng này là không quan tâm đến sự tồn tại của biển. Thậm chí, triều đình Minh-Thanh thực hiện chính sách co lại, thậm chí bế quan toà cảng.

Tập bản đồ “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ”. Địa dư toàn đồ tới các tỉnh của Trung Quốc được thực hiện dưới thời nhà Thanh, xuất bản năm 1904 ghi rõ cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam, không hề bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa. Đây là một công trình được viết liên tục trong gần hai thế kỷ (1708-1904), từ thời vua Khang Hi đến thời vua Quang Tự, một tấm bản đồ được đích thân các hoàng đế nhà Thanh huy động lực lượng giáo sĩ, những người tài giỏi về thiên văn và toán pháp điền dã thực hiện.

Trang 390 và các chi tiết sai trái về chủ quyền Biển Đông

Có lẽ, với bằng chứng này cũng để cho chúng ta thấy rõ tính chất ngụy tạo của ông Cát Kiếm Hùng khi khẳng định một cách võ đoán rằng “cương thổ” Trung Hoa, phía nam xuống tận cả đảo Nam Hải, phía bắc lên đến Kháp Khắc Đồ, phía đông đến đảo Sakhalin; phía tây đến Thông Lãnh. Tất cả nguồn đất đó đều nằm dưới sự cai quản của chính phủ trung ương vương triều nhà Thanh".

Thưa ông, nước ta đã khẳng định chủ quyền ở quần đào Hoàng Sa và Trường Sa từ bao giờ và thông qua những hành động nào? Những bằng chứng lịch sử nào đã chứng minh điều đó?

TS Trần Công Trục: Sự thật là Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa kể từ khi chúng còn là đất vô chủ, chí ít là từ thế kỷ thứ XVII. Việt Nam có đầy đủ các bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý để chứng minh và bảo vệ chủ quyền hợp pháp theo đúng nguyên tắc pháp lý quốc tế hiện hành.

Cụ thể, Nhà nước Đại Việt thời chúa Nguyễn đã cho ra đời và hoạt động thường xuyên, liên tục của Đội Hoàng Sa, một tổ chức do nhà nước lập ra để đi quản lý, bảo vệ, khai thác 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đội Hoàng Sa, về sau lập thêm Đội Bắc Hải, đã hoạt động theo lệnh của 7 đời chúa, từ chúa Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc Tần cho đến khi phong trào Tây Sơn nổi dậy.

Đến thời Tây Sơn, từ năm 1773, Tây Sơn chiếm được cảng Quy Nhơn, tiến về phía Quảng Nam, kiểm soát đến Bình Sơn, Quảng Ngãi, nơi có cửa biển Sa Kỳ và Cù lao Ré, căn cứ xuất phát của Đội Hoàng Sa. Năm 1775, Phường cù lao Ré thuộc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi đã nộp đơn xin cho phép Đội Hoàng Sa và Đội Quế Hương hoạt đông trở lại theo thôn. Khi Ngyễn Nhạc xưng Hoàng đế đã ra quyết định sai phái Hội Đức hầu, cai đội Hoàng Sa, chỉ huy 4 chiếc thuyền câu vượt biển ra Hoàng sa làm nhiệm vụ như cũ.

Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, vua Gia Long (Nguyễn Ánh) cho lập lại đội Hoàng Sa, lấy cai cơ Võ Văn Phú làm thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa và ra đây xem xét đo đạc thủy trình. Sang đời vua Minh Mạng, việc đo đạc thủy trình chủ yếu giao cho thủy quân thực hiện, đồng thời dựng bia chủ quyền, vẽ bản đồ…

Những hoạt động này đã được các văn bản nhà nước ghi nhận, như:Châu bản của triều đình nhà Nguyễn, các văn bản của chính quyền địa phương như tờ lệnh, tờ tư, bằng cấp… hiện đang được lưu trữ tại các Cơ quan lưu trữ nhà nước.

Trong giai đoạn lịch sử này, có một chứng cứ hết sức quan trọng không thểkhông đề cập đến khi chứng minh nhà nước phong kiến Việt Nam đã quản lý thật sự, hiệu quả đối với 2 quần đảo này. Đó là việc tổ chức đơn vị hành chính của Hoàng Sa trong hệ thống tổ chức hành chính của nhà nước lúc bấy giờ. Thời chúa Nuyễn, Hoàng Sa thuộc Thừa tuyên Quảng Nam hay Quảng Nghĩa( Ngãi), lúc là phủ khi thì trấn: “Bãi Cát vàng trong phủ Quảng Nghĩa” (Toản tập Thiên nam Tứ chí lộ đồ thư); “Hoàng Sa ở phủ Quảng Nghĩa (thuộc dinh Quảng Nam, huyện Bình Sơn, xã An Vĩnh” (Phủ biên tạp lục của Lê Quí Đôn); sang thời Tây Sơn, phủ Quảng Nghĩa đổi thành phủ Hòa Nghĩa. Thời nhà Nguyễn, Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi.

Hoạt động của Đội Hoàng Sa không gặp phải bất kỳ một phản đối nào, thậm chí còn được chính thức công nhậnbởi chính quyền Trung Quốc trong “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn….

Việc thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa tiếp tục cho đến thời Pháp khi tháng 3.1925, Toàn quyền Đông Dương đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là bộ phân lãnh thổ thuộc địa của Pháp. Sau đó Thống đốc Nam Kỳ cấp giấy phép nghiên cứu mỏ ở đảo Trường Sa cho Công ty phosphat của Bắc kỳ. Chính phủ Pháp cũng đã gửi thông báo ngoại giao cho các cường quốc về sự kiện đóng giữ quần đảo Trường Sa; sáp nhập quần đảo Trường Sa vao tỉnh Bà Rịa.

TS Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ - Ảnh: Giaoduc.net.vn

Ngày 4 tháng 1 năm 1932, Chính phủ Pháp gửi Công hàm tới Công sứ Trung Quốc tại Paris khẳng định chủ quyền của Pháp đối với Hoàng Sa. Ngày 15 tháng 6 năm 1938, Toàn quyền Đông DươngJules Brevie ký Nghị định 156-S-V thành lập đơn vị hành chính cho quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên. Một thời gian sau, một đơn vị lính bảo an Việt Nam được phá ra đồn trú tại quần đảo Hoàng Sa và dựng bia chủ quyền.

Thời kỳ sau 1945, Tổng trấn Trung phần Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn giao quản lý quần đảo Hoàng Sa giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ Bảo Đại.

Tại Hội nghị San Francisco với đại diện của 51 nước tham dự để ký kết Hòa ước với Nhật đã bác bỏ đề nghị của ngoại trưởng Gromyco (Liên Xô cũ) về việc tu chỉnh khoản 13 của Dự thảo Hòa ước, trong đó có nội dung: Nhật thừa nhận chủ quyền của CHND Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa về phía Nam.

Năm 1951, ôngTrần Văn Hữu -Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng của chính quyền Bảo Đại, đã tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam. Hiệp định Geneve được ký kết cũng đã công nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới vỹ tuyến 17 nên thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt Nam.

Việc thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1975 đến nay thì sao, thưa ông?

TS Trần Công Trục: Từ năm 1975, các lực lượng Quân Giải phóng Nhân dân niềm Nam Việt nam đã tiếp quản các đảo có quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ, đồng thời triển khai lực lượng đóng giữ các đảo, một số vị trí khác trong quần đảo Trường Sa. Chính phủ cũng tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và thành lập các đơn vị hành chính tại đây.

Năm 1988, CHND Trung Hoa đã huy động lực lượngvũ trang đánh chiếm các bãi cạn phíatây bắc quần đảo Trường Sa.Chính phủ CHXHCN Việt Nam đã thông báo choLiên Hợp Quốc và gửi các Công hàm tố cáo và phản đối. Trung Quốc dùng vũ lực để xác lập chủ quyền là hoàn toàn bất hợp pháp, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế.

Cho đến nay, ngoài những hoạt động kể trên, Việt Nam đang đónggiữ và quản lý 21 vị trí tại quần đảo Trường Sa; không ngừng củng cố và phát triển các cơ sở vật chất phục vụ cho đời sống kinh tế, xã hội ,an ninh quốc phòngcủa huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa.

Trí Lâm
Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Một thế giới
Vui buồn nghề muối Bạc Liêu - Bài 2: Ứng dụng kỹ thuật, công nghệ mới
một giờ trước Kinh tế - đầu tư - dự án
Để làm giàu trên chính đồng muối của gia đình, nhiều diêm dân ở Bạc Liêu đã mạnh dạn đầu tư vật tư, thiết bị cơ giới hóa để sản xuất muối theo hướng công nghệ cao. Hướng đi mới đã khẳng định được hiệu quả, góp phần nâng cao sản lượng lẫn chất lượng hạt muối.
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
TS Trần Công Trục: Thu hồi sách xuyên tạc về chủ quyền Biển Đông là cần thiết, dù đã quá muộn