Hoàng hậu và Hoàng tử Bảo Long thường nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp, khiến Thái hậu Từ Cung không hiểu con dâu và cháu nội nói gì.

Sách về Nam Phương - Hoàng hậu cuối cùng: chuyện mẹ chồng - nàng dâu (1)

mai huong | 05/01/2018, 07:44

Hoàng hậu và Hoàng tử Bảo Long thường nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp, khiến Thái hậu Từ Cung không hiểu con dâu và cháu nội nói gì.

QuyểnNam Phương - Hoàng hậu cuối cùngcủa tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang vừa ra mắt bạn đọc. Sách in lần đầu vào năm 2005, có tên làNhững câu chuyện về cuộc đời Nam Phương - Hoàng hậu cuối cùng triều Nguyễn, được tái bản năm 2006 và 2016. Dựa trên đóng góp của bạn đọc, tác giả tiếp tục hoàn thiện bản thảo để ra ấn bản mới.

1.Hoàng hậu Nam Phương hạ sinh thái tử Bảo Long

Thái tử Nguyễn Phúc Bảo Long (1936-2007) là Hoàng Thái tử cuối cùng của Việt Nam. Ông là con trai của Hoàng đế Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương. Ông có một em trai là Hoàng tử Bảo Thắng, ba cô em gái là Công chúa Phương Mai, Công chúa Phương Liên và Công chúa Phương Dung.

Bảo Long sinh vào đêm 4.1.1936 tại điện Kiến Trung trong Đại nội Huế. Ngày 7.3.1939, Bảo Long được phong làm Thái tử khi mới ba tuổi và bắt đầu học với nhà văn Ưng Quả, vị hoàng thân uyên bác thuộc phủ Tuy Lý vương.

Theo tư liệu của một giáo sư sử học Công giáo, thì “Bảo Long đã được chịu phép rửa tội (âm thầm) và được đặt tên theo bổn mạng (tên Thánh) là Philippe”. Một trong ba thầy dạy Bảo Long từ bốn tuổi cho tới khi khôn lớn tại trường D’Adran Đà Lạt đã khẳng định sự việc nói trên là đúng.

Hoàng hậu Nam Phương được đánh giá cao về phẩm hạnh và trí thông minh. Bà kết hợp hài hòa vẻ đẹp truyền thống và hiện đại.

Vì việc Bảo Long rửa tội được giữ kín nên bà Nam Phương bề ngoài vẫn để Bảo Long được giáo dục theo tinh thần Phật giáo, nhưng đã khéo léo hạn chế Bảo Long tham dự các lễ nghi cổ truyền trong triều theo Phật giáo và Khổng giáo. Hoàng hậu Nam Phương còn phản đối kịch liệt việc Thái hậu Từ Cung bắt Bảo Long đeo bùa ở cổ tay.

Theo một vị cận thần của Vua Bảo Đại là Nguyễn Đệ và con gái của cụ Đệ là nữ tu Nguyễn Thị Nghĩa thuộc dòng kinh sĩ Thánh Augustino, Hoàng hậu Nam Phương vốn là cựu học sinh Couvent des Oiseaux nên rất mộ đạo. Mỗi tối, bà bắt Hoàng tử Bảo Long phải vào phòng cùng đọc kinh cầu nguyện. Hàng tuần, còn có linh mục tới làm lễ riêng cho Hoàng hậu Nam Phương và Bảo Long. Vì vậy, ngay từ nhỏ Bảo Long đã thuộc kinh bổn đạo Chúa rất thành thạo và siêng đọc kinh cầu nguyện với mẹ. Những lúc nói chuyện bằng tiếng Pháp, bà Nam Phương thường dạy con về luật giữ đạo, về tín điều của đạo Công giáo.

Bảo Long là người trầm tính nên cũng ít nói chuyện với mọi người, chỉ khi có ai hỏi thì mới trả lời. Nếu các quan trong triều muốn nói chuyện với bà Nam Phương và Bảo Long thì cũng phải dùng tiếng Pháp vì bà Nam Phương rất ít dùng tiếng Việt. Bảo Long cũng quen nói chuyện với quan Tây hơn là quan Việt.

Sau ngày vua cha Bảo Đại thoái vị, đánh dấu sự kết thúc của nhà Nguyễn, ông cùng các em theo Hoàng hậu Nam Phương về cung An Định sống và học tại trường Đồng Khánh. Vốn quen nếp sinh hoạt trong gia đình với cha mẹ chỉ nói tiếng Pháp nên sau ngày Cách mạng Tháng Tám 1945, Bảo Long phải cố gắng lắm mới học được tiếng Việt.

Thỉnh thoảng, Bảo Long bị các cô giáo ở trường Đồng Khánh phạt quỳ quay mặt vào tường. Bảo Long ngoan ngoãn chấp hành. Nhiều hôm đi đón con, Hoàng hậu Nam Phương thấy con bị phạt đau lòng lắm nhưng cũng phải quay mặt đi để cho con thi hành xong giờ phạt. Ngoài giờ học, Bảo Long cùng chơi với học trò thường dân, hát Tiến quân ca, tập đánh trận. Nhiều lần Bảo Long đánh nhau với bạn học là trẻ con Tây.

Đến năm 1947, Chiến tranh Pháp - Việt nổ ra, Nam Phương đem Bảo Long và các con sang Pháp sống tại lâu đài Thorenc, Cannes, thuộc miền duyên hải Đông Nam nước Pháp.

2. Chuyện mẹ chồng nàng dâu

Tuy là một phụ nữ nết na và rất biết cách ăn ở, trong thời gian sống ở Hoàng thành Huế, bà hoàng hậu cuối cùng của nước Việt cũng gặp phải những vấn đề mẹ chồng nàng dâu như bất kỳ phụ nữ nào khác.

Hoàng hậu Nam Phương được đánh giá cao về trí thông minh và phẩm hạnh, là người kết hợp hài hòa nét đẹp truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây. Tuy không phải là nàng dâu mà Hoàng tộc muốn lựa chọn nhưng khi vào sống trong kinh thành Huế, bà đã khéo léo giữ phận dâu con. Bà hoàng Tây học đầu tiên và duy nhất này ngoài việc dạy dỗ con cái còn cùng với Bộ Lễ lo về lễ tiết, cúng kỵ, thăm hỏi mẹ chồng và các bà nội chồng… Thật sự người ta không tìm ra được điểm nào trong cách hành xử của bà để chê bai, ấy vậy mà xung đột mẹ chồng nàng dâu vẫn ngấm ngầm nảy nở.

Những mâu thuẫn xung quanh “hoàng tử bé”

Những năm đầu tiên trong cuộc hôn nhân với Bảo Đại, Nam Phương cực kỳ hạnh phúc, vợ chồng đi đâu cũng có nhau. Nhà vua thường tự mình lái xe chở vợ đi chơi mỗi tuần, hết Nha Trang lại Đà Lạt, thậm chí lên cả Tây Nguyên săn bắn. Ái ân đằm thắm nên những đứa con cũng nối nhau ra đời, đầu tiên là hoàng tử Bảo Long, sinh vào đêm 4.1.1936.

Đêm ấy, nghe bảy phát súng thần công, người dân Huế biết hoàng hậu đã hạ sinh hoàng tử, người sẽ kế vị ngai vàng. Với Thái hậu Từ Cung mà nói, đây là một sự kiện không thể vui hơn. Nước Việt thời ấy, ngay cả trong gia đình thường dân, đứa cháu trai cũng còn thuộc quyền của ông bà nội huống gì là gia đình vua chúa. Thế nhưng, gia đình Bảo Đại lại khác, để cưới được Nam Phương, nhà vua đã cam kết cho bà giữ đạo Thiên Chúa. Và để Hoàng hậu không bị Vatican rút phép thông công vì lấy chồng ngoại đạo, ông cũng chấp nhận điều kiện của Tòa thánh: các con sinh ra sẽ rửa tội theo đạo của mẹ.

Chính vì vậy, Hoàng tử Nguyễn Phúc Bảo Long đã chịu phép rửa tội và đặt tên thánh là Philippe, dĩ nhiên cái lễ “nhạy cảm” này được Hoàng hậu tổ chức lặng lẽ và kín đáo. Với sự “bồi dưỡng” của mẹ, từ khi còn ít tuổi, Hoàng tử Bảo Long đã rất chăm cầu nguyện và thuộc nhiều kinh.

Là cháu đích tôn của Hoàng tộc, dĩ nhiên Bảo Long vẫn được giáo dục theo tinh thần Phật giáo, thế nhưng Nam Phương đã cố gắng tránh cho con trai mình tham dự quá nhiều lễ nghi cổ truyền mang màu sắc đạo Phật. Điều này, bà Từ Cung hẳn cũng cảm nhận được tuy không có cớ bắt bẻ con dâu.

Tuy nhiên, Thái hậu khó mà giữ được bình tĩnh khi bà bắt cháu đeo những đạo bùa cầu an, trừ tà ở cổ tay mà mẹ nó nhất quyết phản đối.

Một điều khiến Thái hậu Từ Cung khó chịu nữa là Hoàng hậu Nam Phương và Hoàng tử Bảo Long thường nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp, khiến bà không thể hiểu con dâu và cháu nội nói gì. Bà Từ Cung vốn xuất thân không cao sang, học vấn lại khá khiêm tốn, nên hẳn không thoải mái, dễ chịu gì trước việc nàng dâu hiểu nhiều biết rộng, tiếng Pháp “nói như gió”, có thể qua mặt bà trong việc dạy dỗ đứa cháu đích tôn. Bà cũng biết rằng Bảo Long không thích dự các nghi lễ Phật giáo mà bà sùng mộ, chỉ thích các lễ nghi Tây phương và Thiên Chúa giáo. Cậu thích nói tiếng Pháp nên giao tiếp nhiều với các quan Tây, các quan trong triều muốn nói chuyện với Hoàng tử và Hoàng hậu thì buộc phải dùng tiếng Pháp.

Là một mẹ chồng, một thái hậu, có toàn quyền trong hậu cung nhưng bà Từ Cung lại bất lực nhìn kẻ nối ngôi được giáo dục theo một đường hướng mà bà không mong muốn. Vì thế, tuy không công khai đả kích Nam Phương nhưng tình cảm mẹ chồng nàng dâu không thể nói là tốt đẹp, mâu thuẫn cứ ngấm ngầm phát triển.

Không thích hoàng hậu, thái hậu mở lòng với “thứ phi”

Thực ra, mối bất hòa giữa thái hậu và hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn cũng khó mà tránh được, cho dù hai bên có giỏi kiềm chế tới đâu chăng nữa. Trước hết, hai con người này quá khác nhau. Bà Từ Cung xuất thân trong một gia đình nghèo khó, đến mức phải bán con làm hầu gái của một bà chúa, rồi sau đó được lấy sang hầu hạ bên dinh ông hoàng Bửu Đảo (sau là Vua Khải Định), rồi vì may mắn có thai với ông chủ mà trở thành mẹ vua. Trong khi đó Hoàng hậu Nam Phương sinh ra trong nhung lụa, được học hành đến nơi đến chốn, ngay ngày cưới đã được tấn phong hoàng hậu. Nếu người ta nói bà Từ Cung có chút mặc cảm với con dâu thì cũng chưa hẳn là đoán bừa.

Nam Phương là nàng dâu mà bà Từ Cung bị ép phải chấp nhận. Đã thế, cô dâu bất đắc dĩ này không phải cúi đầu vào cung, mà còn đưa ra cả mớ điều kiện “ngông cuồng” mới chịu lấy hoàng đế: phải được tấn phong hoàng hậu, nhà vua phải giải tán tam cung lục viện, thực hiện chế độ một vợ một chồng, con trai nàng sinh ra phải được phong thái tử. Thử hỏi từ trước đến nay, có người phụ nữ nào dám ra điều kiện với hoàng đế, mà lại là những điều kiện “trời long đất lở” chưa từng có như vậy không? Vậy mà con trai bà lại răm rắp chấp nhận. Nghĩ đến mình ngày trước phải chịu bao tủi nhục, ngay cả lúc mang thai còn bị hai bà mẹ chồng (bà Thánh Cung và Tiên Cung, vợ vua Đồng Khánh, mẹ đích và mẹ đẻ của Khải Định) bắt nằm úp bụng xuống một cái hố để đánh đòn, nhằm tra khảo xem cái bào thai ấy có đúng của Khải Định hay không... Thái hậu chắc sẽ còn chút chua chát và sinh ra ác cảm với con dâu.

Đã thế, Hoàng hậu Nam Phương vào cung còn mang theo số của hồi môn lớn, riêng tiền mặt mà cậu ruột mừng cưới đã là một triệu đồng, trong khi giá một tạ thóc hồi đó chỉ năm đồng. Nếu tính cả tiền bạc, nữ trang và bất động sản mà bố mẹ đẻ cho thì không biết bao nhiêu mà kể. Hoàng hậu lại chiếm trọn trái tim nhà vua nhờ nhan sắc và vẻ quyến rũ, cộng thêm sự ủng hộ của người Pháp, nên quyền lực của Nam Phương trong Hoàng cung không phải nhỏ. Hoàng hậu lại có tư tưởng tự do của Tây phương, nên không thể nói một câu, làm một việc nhỏ cũng phải đoán ý mẹ chồng. Tất cả những yếu tố đó khiến cho Thái hậu Từ Cung đối với con dâu có thể bằng mặt nhưng khó mà bằng lòng.

Có lẽ vì vậy mà bà Từ Cung rất dễ dàng chấp nhận bà Mộng Điệp, tình nhân của Bảo Đại, coi Mộng Điệp như thứ phi, cho dù chế độ phi tần đã bị chính con trai bà bãi bỏ từ lâu. Ngoài việc Mộng Điệp trên thực tế là người luôn kề cận chăm sóc Bảo Đại, được ông sủng ái, sinh con cho nhà vua, có một điểm nữa khiến thái hậu hài lòng là “thứ phi” này theo đạo Phật. Cho dù đây là người vợ không cưới xin, không hôn thú, nhưng bà vẫn nghiễm nhiên coi Mộng Điệp là dâu, và tin tưởng giao cho việc thờ cúng tổ tiên nhà chồng. Bà Mộng Điệp cũng tâm niệm mình suốt đời là vợ của Bảo Đại nên đã làm việc đó một cách thành tâm, chu đáo nhất. Tình cảm giữa bà Từ Cung và Mộng Điệp rất tốt đẹp. Thái hậu thậm chí còn ban mũ áo cho “thứ phi” để thay mặt Hoàng hậu Nam Phương trong các cuộc cúng tế, mà bà hoàng hậu theo Thiên Chúa giáo không muốn dính vào.

Tình vợ chồng giữa Bảo Đại và Nam Phương chỉ thắm thiết những năm đầu, sau đó Bảo Đại trở nên ham chơi và trăng hoa mải miết đuổi theo những bóng hồng khác. Nam Phương lại quá nề nếp và kiêu hãnh nên không cố gắng quyến rũ, giành giật chồng bằng những chiêu thức mà bà cho là không xứng với địa vị của mình. Vì thế, vợ chồng mỗi ngày một xa cách. Hoàng đế ít khi về với hoàng hậu. Trong cảnh sống cô đơn ở hoàng cung, sự lạnh lẽo trong quan hệ với mẹ chồng càng khiến cho trái tim Nam Phương thêm tủi buồn, đúng như lời ông thầy bói từng phán về bà thời con gái: bà sẽ bước lên địa vị tôn quý nhất, nhưng cuộc đời lại không có mấy niềm vui.

Còn tiếp...

VNE (Trích sáchNam Phương - Hoàng hậu cuối cùng, Lý Nhân Phan Thứ Lang, Saigonbooks và Nhà xuất bản Thế giới)

>>Sách về Nam Phương - Hoàng hậu cuối cùng: người vấn khăn vành dây cho hoàng hậu (kỳ cuối)
Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Một thế giới
Vui buồn nghề muối Bạc Liêu - Bài 2: Ứng dụng kỹ thuật, công nghệ mới
Để làm giàu trên chính đồng muối của gia đình, nhiều diêm dân ở Bạc Liêu đã mạnh dạn đầu tư vật tư, thiết bị cơ giới hóa để sản xuất muối theo hướng công nghệ cao. Hướng đi mới đã khẳng định được hiệu quả, góp phần nâng cao sản lượng lẫn chất lượng hạt muối.
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Sách về Nam Phương - Hoàng hậu cuối cùng: chuyện mẹ chồng - nàng dâu (1)