Dự thảo về danh mục 20 ngành nghề độc quyền nhà nước theo đề xuất của Bộ Công Thương đang thu hút sự quan tâm lớn của dư luận. Xoay quanh vấn đề này, nhiều chuyên gia kinh tế đã có cái nhìn khác nhau.
Bộ Công thương vừa trình lên Chính phủ bản dự thảo mới nhất của Nghị định về hàng hóa, dịch vụ, địa bàn thực hiện độc quyền nhà nước trong hoạt động thương mại. Trong đó sẽ có 20 ngành nghề Nhà nước độc quyền là sản xuất vàng miếng; xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng; phát hành xổ số kiến thiết; phát hành tem bưu chính Việt Nam...
Mặc dù vừa mới được công bố nhưng dự thảo này đã gây nên nhiều ý kiến trái chiều do những tác động tới môi trường kinh doanh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp...
Trả lời báo chí vấn đề này, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng dự thảo trên sẽ “trói” tinh thần cải cách mà Chính phủ đang thúc đẩy về cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân làm động lực. Bà Lan nhận xétcách thức tiếp cận như dự thảo trên là đang quá đặt niềm tin vào doanh nghiệp nhà nước.
"Trong bối cảnh kinh tế của nước ta hiện nay, những điều chưa thực sự đúng với tính thần cải cách thì nên loại bỏ", bà Lan nói.
Trao đổi với báo điện tử Một Thế Giới, TS Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)nhận định trong điều kiện tình hình doanh nghiệp và kinh tế của nước ta hiện nay thì việc đưa ra các ngành nghề kinh doanh có điều kiện là hợp lý, tuy nhiên trong danh sách 20 ngành nghề kinh doanh có điều kiện mà Bộ Công Thương đề ra có một vài ngành nghề nên xem xét lại, chẳng hạnnhư: xuất bản...
"Nhiều người cho rằng dự thảo trên sẽ ảnh hưởng lớn tới môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tôi cho rằng không phải tất cả 20 ngành nghề trên đều như vậy, không phải cứ có điều kiện độc quyền thì hạn chế. Cần phải sàng lọc, xem xét kỹ lưỡng tính chất từng ngành nghề để có sự lựa chọn cụ thể, hợp lý.
Bên cạnh đó, do là độc quyền nhà nước nên Nhà nước cần phải kiểm soát giám sát chặt chẽ, làm sao phải công khai, minh bạch thông tin cho người dân biết", TS Hồ cho hay.
Về mặt pháp lý của dự thảo này, LS Trương Thanh Đức, Chủ tịch Công ty Luật Basico, trọng tài viên Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam cho biếtdự thảo nghị định cũng như Luật Thương mại năm 2005 cần được xem lại, vì không còn phù hợp với các quy định mới của Hiến pháp cũng như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư năm 2014 và Bộ luật Dân sự năm 2015.
LS Đức cho rằng Hiến pháp năm 1980 quy định “Nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế khác với nước ngoài”, còn Hiến pháp năm 1992 và 2013 không còn bất kỳ quy định nào về việc độc quyền nhà nước. Như vậy, việc duy trì độc quyền nhà nước là trái với Hiến pháp hiện hành.
Theo ông Đức, hiện nay tất cả các doanh nghiệp đều được Nhà nước “bảo đảm bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế” theo quy định tại khoản 1, điều 5, Luật Doanh nghiệp năm 2014. Như vậy sẽ không còn việc phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp phi nhà nước.
Bên cạnh đó, Nhà nước hiện nay cũng chỉ cấm các doanh nghiệp không được đầu tư kinh doanh trong 7 ngành nghề, theo quy định về ngànhnghề cấm đầu tư kinh doanh, còn lại được tự do đầu tư kinh doanh hoặc khi đáp ứng được các điều kiện đối với 243 ngànhnghề theo quy định tại điều 7 về “ngànhnghề đầu tư kinh doanh có điều kiện”, Luật Đầu tư năm 2014, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2016.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã bỏ quy định về “doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích” và thay thế bằng quy định sản phẩm, dịch vụ công ích, tức là không còn gắn với doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng.
Điều 7 về “Quyền của doanh nghiệp”, điều 9 về “Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích”, Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh trong những ngànhnghề mà luật không cấm.
Trong khi đó, phíaBộ Công Thương lập luận rằngviệc quy định các nội dung này tại dự thảo nghị định sẽ khắc phục các khoảng trống pháp lý mà các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến độc quyền nhà nước đã được ban hành trước đó chưa thể hiện được. Qua đó, sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch, thống nhất và đầy đủ của hệ thống pháp luật về độc quyền nhà nước trong hoạt động thương mại.
Ngoài ra, việc lập danh mục hàng hóa, dịch vụ và địa bàn độc quyền nhà nước cũng sẽ góp phần tăng cường môi trường cạnh tranh lành mạnh khi minh bạch rõ phạm vi độc quyền nhà nước cũng như các quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp có liên quan, qua đó tạo sự yên tâm, tin tưởng và khả năng giám sát cho các thành phần kinh tế khác về sự can thiệp của Nhà nước và nền kinh tế thông qua pháp luật.
Điều này đồng thờigóp phần minh bạch hóa để thực hiện các nội dung có liên quan tại các điều ước quốc tế; qua đótăng cường uy tín của Việt Nam và tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho thực hiện bảo lưu quyền khi thực hiện các cam kết quốc tế mở cửa thị trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Báo Chính phủ trích dẫn lờiông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho rằngdự thảo chưa thực sự phù hợp với quy định tại Luật Thương mại 2005. Bởi Luật cho phép quy định danh mục độc quyền nhà nước, nhưng phải có thời hạn, trong khi dự thảo Nghị định chưa quy định về thời hạn.
Bên cạnh đó, danh mục 20 ngành nghề cụ thể cũng chưa thuyết phục. “Tôi cho rằng các ngành nghề mà tư nhân không có nhu cầu hay khả năng tham gia thì cũng không nên cấm. Vì có thể đến một lúc nào đó họ sẽ muốn tham gia và quan trọng hơn, họ có tham gia cũng không gây nguy cơ gì”, ông Tuấn phân tích.
Lấy ví dụ cụ thể, ông Đậu Anh Tuấn cho biết có những lĩnh vực trước đây thuộc độc quyền nhà nước như xử lý nước thải, vệ sinh môi trường, nhưng gần đây một số thành phố đã cho phép tư nhân tham gia. Nhà nước có nhu cầu thì đặt hàng, ai làm tốt hơn sẽ được giao. Ngay cả những ngành rất quan trọng và có tác động lớn như ngân hàng hay hành không thì cũng đã cho phép tư nhân tham gia từ lâu. Vấn đề là cơ quan quản lý có các biện pháp kiểm soát như thế nào.
“Có thể vì những lý do trước mắt, ngắn hạn, trong một thời điểm nào đó có thể cấm tư nhân tham gia, nhưng về lâu dài, không nên cấm tư nhân trong những ngành như vậy. Tôi cho rằng đề xuất này đang đi ngược lại chủ trương chung. Trong danh mục này chỉ nên giữ lại những ngành nghề quốc phòng, an ninh”, ông Tuấn nêu quan điểm.
Báo Chính phủ cũng dẫn lờiTS Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) cho rằng, thời điểm hiện nay, cho ra đời một nghị định hướng dẫn về độc quyền Nhà nước trong lĩnh vực thương mại là phản thị trường, cản trở cạnh tranh, đi ngược lại xu thế cải cách.
“Trong bối cảnh hiện nay, không thể có một nghị định để nói là cái gì Nhà nước độc quyền, bởi như thế là phản logic ngay từ đầu. Những quy định trong Luật Thương mại đã lỗi thời thì phải loại bỏ, phải thay đổi”, vị chuyên gia đánh giá.
“Chúng ta không thể cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy khởi nghiệp với các văn bản kiểu như vậy”, ông Cung nói.
1. Hàng hóa, dịch vụ phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn thực hiện cụ thể).
2. Sản xuất, mua bán, xuất nhập khẩu vật liệu nổ công nghiệp.
3. Sản xuất vàng miếng.
4. Xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng.
5. Phát hành xổ số kiến thiết.
6. Nhập khẩu thuốc lá điếu, xì gà (trừ hàng miễn thuế).
7. Hoạt động dự trữ quốc gia.
8. In, đúc tiền.
9. Phát hành tem bưu chính Việt Nam.
10. Sản xuất, mua bán, xuất nhập khẩu, vận chuyển, tàng trữ pháo hoa và các dịch vụ liên quan.
11. Truyền tải, điều độ hệ thống điện quốc gia, xây dựng, vận hành thủy điện đa mục tiêu và điện hạt nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế-xã hội.
12. Vận hành hệ thống đèn biển, hệ thống luồng hàng hải công cộng.
13. Quản lý, vận hành, khai thác đài thông tin duyên hải.
14. Dịch vụ không lưu, dịch vụ thông báo tin tức hàng không, dịch vụ tìm kiếm cứu nạn.
15. Quản lý, khai thác hệ thống kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị do Nhà nước đầu tư.
16. Quản lý, khai thác hệ thống công trình thủy lợi, thủy nông liên tỉnh, liên huyện, kè biển trong trường hợp giao kế hoạch.
17. Cung ứng dịch vụ lâm nghiệp tại rừng đặc dụng (trừ khu rừng bảo vệ cảnh quan được Nhà nước giao cho tổ chức kinh tế).
18. Xuất bản (không bao gồm in và phát hành).
19. Duy trì, quản lý, khai thác mạng bưu chính công cộng.
20. Cung ứng dịch vụ công ích trong hoạt động phát hành báo chí.