Nhật Bản hôm 24.8 bắt đầu xả nước phóng xạ đã qua xử lý từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima xuống Thái Bình Dương. Kế hoạch này đã gây chia rẽ sâu sắc giữa các quốc gia và giới khoa học.
Tháng 3.2011, Nhật Bản hứng chịu thảm họa kép động đất và sóng thần, khiến nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi bị ảnh hưởng. TEPCO, đơn vị vận hành nhà máy, phải xử lý khoảng 1.000 bể thép chứa 1,34 triệu tấn nước ô nhiễm dùng để làm mát lò phản ứng.
Khi không còn đất xây bể chứa và cần giải phóng không gian, giới chức Nhật Bản từ năm 2021 bắt đầu lên kế hoạch xả dần nước thải qua xử lý xuống biển. Nước được lọc, pha loãng triệt để, loại bỏ các đồng vị phóng xạ, chỉ để lại tritium, một trong hai đồng vị phóng xạ của hydro.
Kế hoạch xả thải của Nhật Bản sẽ diễn ra trong 3 thập kỷ tới, mặc dù một số chuyên gia cho rằng việc này có thể mất nhiều thời gian hơn do nước vẫn đang trong quá trình xử lý. Trong khi cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) đảm bảo tính an toàn của kế hoạch này thì một số nước láng giềng của Nhật Bản lại chỉ trích kế hoạch này là đơn phương và nguy hiểm.
Một quan chức cấp cao của Trung Quốc đã gọi đây là rủi ro "đối với toàn nhân loại" và cáo buộc Nhật Bản coi Thái Bình Dương là "cống thoát nước".
Người đứng đầu Diễn đàn Quần đảo Thái Bình Dương, một tổ chức đại diện cho 18 quốc đảo đã cho việc Nhật Bản xả thải như một "chiếc hộp Pandora". Ngày 15.5, một số quan chức Hàn Quốc đã phản ứng trước lập trường của chính phủ Nhật Bản khi cho rằng thứ nước thải phóng xạ đủ an toàn để uống: "Nếu đủ an toàn để uống, họ nên dùng nó làm nước uống".
Các nhà khoa học Mỹ cũng đang dấy lên lo ngại rằng sinh vật biển và các dòng hải lưu có thể mang các đồng vị phóng xạ có hại lan ra khắp Thái Bình Dương.
Robert Richmond, Giám đốc Phòng thí nghiệm Hàng hải Kewalo tại Đại học Hawaii (Mỹ), đồng thời là cố vấn khoa học về kế hoạch xả thải cho Diễn đàn Quần đảo Thái Bình Dương, cho biết: "Đó là một sự kiện xuyên biên giới và xuyên thế hệ. Bất cứ thứ gì được thải ra biển ngoài khơi Fukushima sẽ không ở yên một chỗ".
Richmond trích dẫn các nghiên cứu cho thấy hạt nhân phóng xạ và mảnh vỡ trong tai nạn Fukushima đã nhanh chóng được phát hiện cách bờ biển California (Mỹ) gần 5.500 dặm. Ông cho biết các yếu tố phóng xạ trong kế hoạch xả nước thải có thể một lần nữa lan rộng khắp đại dương.
Các hạt nhân phóng xạ có thể được các dòng hải lưu mang theo, đặc biệt là dòng Kuroshio xuyên Thái Bình Dương. Động vật biển di cư khoảng cách xa cũng có thể làm lây lan chúng. Một nghiên cứu năm 2012 trích dẫn "bằng chứng rõ ràng" rằng cá ngừ vây xanh Thái Bình Dương mang theo hạt nhân phóng xạ có nguồn gốc từ Fukushima đến bờ biển San Diego (Mỹ) trong vòng 6 tháng kể từ sự cố năm 2011.
Richmond cho biết, không kém phần lo ngại, sinh vật phù du, vốn là nền tảng của chuỗi thức ăn cho tất cả sinh vật biển, có thể nhiễm phóng xạ từ nước thải. Khi ăn vào, những đồng vị đó có thể "tích tụ trong nhiều loại động vật không xương sống, cá, động vật có vú ở biển và con người". Ngoài ra, một nghiên cứu đầu năm nay đề cập đến vị hạt nhựa có thể là "con ngựa thành Troy" trong quá trình vận chuyển hạt nhân phóng xạ.
Richmond cho rằng việc các nhà khoa học có thể tìm dấu vết của các nguyên tố phóng xạ gần California sau sự cố năm 2011 "là dấu hiệu cho thấy những gì sẽ xảy ra” trong hàng thập kỷ xả nước thải ra đại dương.
Ông cùng các đồng nghiệp không phải là những nhà khoa học Mỹ duy nhất bày tỏ sự lo ngại này. Tháng 12 vừa qua, Hiệp hội Phòng thí nghiệm Hàng hải Quốc gia có trụ sở tại Mỹ đã đưa ra tuyên bố phản đối kế hoạch xả nước thải. Cơ quan này cho rằng "thiếu dữ liệu khoa học đầy đủ và chính xác hỗ trợ cho sự khẳng định tính an toàn của Nhật Bản. Việc xả thải có thể đe doạ vùng nước lớn nhất hành tinh, chứa sinh khối sinh vật lớn nhất... bao gồm 70% nguồn thuỷ sản của thế giới".
Ken Buesseler, nhà hoá học phóng xạ biển và cố vấn của Diễn đàn Quần đảo Thái Bình Dương, cho biết vụ rò rỉ chất phóng xạ từ Fukushima vào Thái Bình Dương năm 2011 là tương đối lớn, nhưng ngay cả như vậy, mức độ được phát hiện ở bờ biển phía tây Bắc Mỹ "thấp hơn hàng triệu lần so với mức cao nhất ngoài khơi Nhật Bản, cao đến mức nguy hiểm trong những tháng đầu năm 2011".
"Bởi vì khoảng cách và thời gian làm giảm mức độ phóng xạ nên tôi không nghĩ rằng lượng phóng xạ thải ra sẽ phá huỷ Thái Bình Dương một cách không thể khắc phục được. Chúng ta sẽ không chết. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta không nên lo lắng", Buesseler nói.
Buesseler, người đặt câu hỏi về hiệu quả của hệ thống lọc nước thải trong việc loại bỏ tất cả các nguyên tố phóng xạ trong bể, cho biết các bể chứa nước thải được lưu trữ có chứa các mức độ đồng vị phóng xạ khác nhau như Caesium-137, strontium-90 và tritium. TEPCO đã sử dụng một hệ thống mà IAEA cho biết sẽ loại bỏ 62 loại đồng vị hạt nhân phóng xạ khác nhau, ngoại trừ tritium, một dạng phóng xạ của hydro.
Người phát ngôn của TEPCO cho biết trong một email rằng tác động của việc xả thải đối với "công chúng và môi trường sẽ ở mức tối thiểu". Toàn bộ nước thải sẽ được "làm sạch, lấy mẫu và kiểm tra lại nhiều lần để xác nhận rằng nồng độ chất phóng xạ nằm dưới tiêu chuẩn quy định" trước khi thải ra đại dương. Mặc dù hệ thống lọc không thể loại bỏ tritium, nhưng nước thải đã qua xử lý sẽ được pha loãng với nước biển cho đến khi chất thải có hàm lượng tritium thấp hơn mức được thải ra của các nhà máy điện hạt nhân khác ở cả Nhật Bản và trên thế giới.
Tritium là một đồng vị tương đối yếu, không thể xuyên qua da nhưng có thể gây hại khi nuốt phải.
Buesseler cảnh báo rằng hệ thống lọc vẫn chưa "được chứng minh là luôn có hiệu quả". Ông cho biết còn có những nguyên tố rất đáng lo ngại… mà chưa thể làm sạch chẳng hạn như Caesium và strontium-90, một đồng vị làm tăng nguy cơ ung thư xương và bệnh bạch cầu.
Sau khi kiểm tra dữ liệu của TEPCO về một số bể chứa nước thải, Buesseler và cộng sự cho biết sau khi xử lý, nước thải vẫn chứa đồng vị phóng xạ với nồng độ thay đổi đáng kể giữa các bể. "Thật không công bằng khi nói rằng chúng đã bị loại bỏ thành công", Buesseler cho biết thêm.
Khi được hỏi về quan điểm của Mỹ đối với đề xuất xả thải của Nhật Bản, một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ bày tỏ sự ủng hộ thận trọng rằng Nhật Bản đã "minh bạch về quyết định của mình và dường như đã áp dụng cách tiếp cận phù hợp với các tiêu chuẩn an toàn hạt nhân được chấp nhận trên toàn cầu". Người này từ chối bình luận về những lo ngại cụ thể về khả năng lây lan của hạt nhân phóng xạ qua Thái Bình Dương tới bờ biển Bắc Mỹ.
Richmond và Buesseler nói rằng mặc dù họ đã nắm được nhiều dữ liệu của IAEA và đã gặp các đại diện của TEPCO và chính phủ Nhật Bản, nhưng họ vẫn còn hoài nghi.