Trung Quốc đang không ngừng triển khai các đội tàu tuần duyên khổng lổ cùng tàu đánh cá kết hợp dân quân biển để đòi hỏi một cách phi lý về chủ quyền tại Biển Đông. Đáp lại, Mỹ hiện cũng đưa các tàu thuộc Lực lượng Tuần duyên tới khu vực.
Theo SCMP, trong những năm gần đây, Bắc Kinh đã sử dụng một cách khéo léo lực lượng tàu dân sự núp dưới vỏ “hòa bình, thân thiện” để đe dọa và lấn át các nước khác có chủ quyền trên Biển Đông.
Tuy nhiên, theo những gì các nhà phân tích gọi là chiến lược “chiến tranh Nhân dân trên biển”, Trung Quốc đã triển khai hàng loạt các tàu đánh cá kiêm cả vai trò dân quân biển và các đội tàu tuần duyên khổng lồ ở Biển Đông, nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền phi lý của Bắc Kinh tại vùng biển chiến lược này.
Trước sự bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông, các nước trong khu vực buộc phải xem xét lại chiến lược đối phó của mình.
Phản ứng với các động thái của Trung Quốc, Mỹ cũng đã đưa các tàu thân trắng thuộc Lực lượng Tuần duyên Mỹ (USCG) tới khu vực. Cách tiếp cận của Mỹ đã phản ánh lập trường của Washington trong việc đối phó với nguy cơ xảy ra cuộc chiến tranh lạnh mới ở Đông Á, khi hai siêu cường cùng “tranh đấu” trên biển.
Nhận thức được các chính quyền tiền nhiệm đã thất bại trong việc kìm hãm Trung Quốc khi nước này chuyển đổi nhanh chóng bối cảnh chiến lược khu vực - đặc biệt là chương trình cải tạo đảo lớn và quân sự hóa phi pháp các đảo trên Biển Đông -, chính quyền Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump đã đưa ra nhiều các tiếp cận mới ở Biển Đông.
Nhà Trắng đã trao quyền tự quyết chính sách lớn hơn cho Lầu Năm Góc (Bộ Quốc phòng Mỹ) để thách thức một Trung Quốc đang ngày càng gia tăng ảnh hưởng trong khu vực. Kết quả của chính sách này được thể hiện qua nhiều chiến dịch đảm bảo tự do hàng hải (FONOPS) do hải quân Mỹ thực hiện trên khắp Châu Á và tại Biển Đông.
FONOPS cho phép Mỹ nhiều lần triển khai các tàu chiến tiến vào khu vực 12 hải lý xung quanh các đảo do Trung Quốc chiếm đóng tại Biển Đông. Hơn nữa, FONOPS còn mở rộng sang các khu vực địa lý mới, đặc biệt là Bãi cạn Scarborough.
Khi có được quyền tự quyết nhiều hơn, Lầu Năm Góc cũng áp dụng một ngôn ngữ cứng rắn hơn, bao gồm công khai kêu gọi Trung Quốc tháo dỡ các tài sản quân sự trái phép mà nước này đã triển khai trên các đảo nhân tạo.
Quan trọng hơn, hải quân Mỹ đã thay đổi cách tiếp cận hoạt động. Bắt đầu từ cuối năm 2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lúc đó là ông James Mattis đã cảnh báo rằng, Lầu Năm Góc sẽ bắt đầu “đối xử” với lực lượng dân quân biển Trung Quốc, còn được gọi là Lực lượng Dân quân Hàng hải Quân đội Giải phóng Nhân dân, như một nhánh mở rộng của lực lượng vũ trang Bắc Kinh.
Sự thay đổi hoạt động này sau đó đã được xác nhận và triển khai trong năm nay bởi đô đốc John Richardson, người đứng đầu các hoạt động hải quân của Mỹ, khi ông cảnh báo về các hành động khiêu khích của Trung Quốc, cụ thể qua các cuộc đối đầu giữa các tàu núp dưới vỏ bọc hòa bình của Trung Quốc với tàu của các nước khác trong khu vực.
Ban lãnh đạo Lầu Năm Góc đã cam kết sẽ chống lại chiến lược chiến tranh không cần đổ máu của Trung Quốc bằng cách xây dựng cách tiếp cận cụ thể nhằm đối phó các lực lượng tuần duyên và bán quân sự vốn đang càng phát triển của Bắc Kinh. Sau khi cảnh báo Bắc Kinh về các hành vi cản trở hoạt động của tàu Mỹ trong khu vực, đô đốc Richardson hứa hẹn sẽ có cách tiếp cận “cơ bắp” với Trung Quốc.
Điều này cho thấy sự leo thang căng thẳng rất lớn, vì tàu chiến Mỹ có thể bắt đầu áp dụng cách thức đối phó tương tự với các tàu quân sự “vỏ xám” của Trung Quốc cũng như các tàu bán quân sự và tàu tuần duyên của nước này, đồng nghĩa với việc gia tăng đáng kể các nguy cơ xảy ra các vụ chạm trán trên biển.
Sau vụ nghi ngờ tàu bán quân sự Trung Quốc đâm chìm tàu cá Philippines trên Biển Đông hồi tháng 6, Washington đã cảnh báo công khai Bắc Kinh rằng, nước này có hiệp ước phòng vệ chung với Manila và có thể áp dụng nhằm chống lại trước các mối đe dọa “vùng xám” của Trung Quốc trên Biển Đông.
Bên cạnh đó, lực lượng tuần duyên Mỹ (USCG) cũng đã bắt đầu tham gia vào cuộc tranh chấp, đồng thời mở rộng các cuộc tập trận chung nhằm nâng cao năng lực phòng vệ của các của các quốc gia có liên quan.
Khi được hỏi về các kế hoạch nhằm đối phó các cuộc xung đột ở Biển Đông với Trung Quốc, tư lệnh của USCG, đô đốc Karl Schultz, đã nói trong Diễn đàn An ninh Quốc tế Halifax (Canada) năm ngoái rằng, các cuộc thảo luận và những nỗ lực lên kế hoạch vẫn đang diễn ra.
“Chúng tôi có liên quan với nhau, chúng tôi đã hợp tác đào tạo với các đồng minh khu vực nhằm tăng cường an ninh khu vực. Chúng tôi muốn tập trung vào các đối tác có chung chí hướng nhằm xây dựng một cách tiếp cận mang tầm khu vực”, đô đốc Schultz nhấn mạnh.
Đô đốc Philip Davidson, người đứng đầu Bộ Tư lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương Mỹ, đã nhắc lại cách tiếp cận toàn diện này qua việc khẳng định trọng tâm vào việc thách thức cái gọi là “Vạn lý Trường thành SAM” - hệ thống tên lửa đất đối không do Trung Quốc triển khai tại Biển Đông.
Các tàu của tuần duyên Mỹ cũng đã tham gia các chiến dịch “Tự do hàng hải” (FONOPS) cùng hải quân Mỹ ở nhiều khu vực bao gồm cả eo biển Đài Loan. USCG cũng tăng cường triển khai các chiến dịch khác như triển khai 3 tàu phản ứng nhanh ở đảo Guam và tham gia tập trận chung ở Tây Thái Bình Dương với các đồng minh ngoài châu Á.
Gần đây, các tàu USCGC Walnut và USCGC Joseph Gerczak đã thực hiện các nhiệm vụ chung với tàu hải quân Úc HMAS Choules và hải quân New Zealand HMNZS Otago. Điều này báo hiệu sự thúc đẩy các hoạt động lâu dài của Mỹ trong khu vực.
Biển Đông hiện là một trong những điểm nóng ngày càng gia tăng căng thẳng trong mối quan hệ Trung - Mỹ, bao gồm một cuộc chiến thương mại, các chế tài của Mỹ và vấn đề Đài Loan.
Hoàng Vũ (theo SCMP)