Đau đầu với ‘zombie’ trái phiếu doanh nghiệp
Tài chính và đầu tư - Ngày đăng : 16:47, 17/08/2024
Đau đầu với ‘zombie’ trái phiếu doanh nghiệp
Chuyên gia cho rằng một số doanh nghiệp hiện nay tồn tại như những zombie, không có khả năng trả nợ trái phiếu. Tuy vậy, để cho phá sản những doanh nghiệp này lại không đơn giản.
Áp lực trả nợ trái phiếu vẫn lớn
Theo các chuyên gia, hiện nay rủi ro trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) đáo hạn và quá hạn thanh toán còn cao.
Số liệu từ Ủy ban Chứng khoán nhà nước (UBCKNN) cho thấy tính đến cuối năm 2023, tỷ lệ nợ xấu trong thị trường TPDN đã lên mức 5,2%, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước.
Đại diện Công ty Chứng khoán Vietinbank cho biết nhiều doanh nghiệp phát hành trái phiếu có chất lượng tín dụng không tốt, dẫn đến nguy cơ không thể thanh toán các khoản lãi và gốc trái phiếu khi đến hạn.
Ngoài ra, để thu hút nhà đầu tư, các doanh nghiệp thường phát hành trái phiếu với mức lãi suất cao. Số liệu thống kê từ Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) cho thấy lãi suất TPDN trung bình năm 2023 đã đạt mức 9,5%/năm. Con số này cao gấp gần 3 lần so với lãi suất trung bình của trái phiếu chính phủ là 3,5%/năm và cao hơn mức lãi suất bình quân cho vay mới của ngân hàng là 6,7%/năm.
Tuy nhiên, mức lãi suất hấp dẫn thường đi kèm với mức độ rủi ro cao hơn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là đối với những đơn vị phát hành mà tài sản đảm bảo giá trị không ổn định hoặc dễ bị giảm sút theo thời gian.
Theo TS Cấn Văn Lực - Kinh tế trưởng BIDV, hai nhóm ngành phát hành TPDN nhiều nhất là tổ chức tín dụng và doanh nghiệp bất động sản (BĐS). Trong đó, TPDN được phát hành bởi các tổ chức tín dụng có mức rủi ro khá thấp, nhưng đối với nhóm doanh nghiệp BĐS, rủi ro quá hạn và tiềm ẩn nợ xấu TPDN ở mức độ cao hơn nhiều. Doanh nghiệp BĐS chiếm đa số (khoảng 68%) trong lượng TPDN chậm thanh toán đến nay.
Trong 6 tháng cuối năm 2024, Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA) ước tính có khoảng 139,77 nghìn tỉ đồng trái phiếu đáo hạn, trong đó phần lớn là trái phiếu BĐS với 58,8 nghìn tỉ đồng (chiếm 42%).
VIS Rating ước tính khoảng 27% trái phiếu đáo hạn có nguy cơ không trả nợ đúng hạn trong 12 tháng tới (trong đó gồm cả 65% trái phiếu đã chậm trả trước đó).
Dù vậy, ông Lực cũng nhìn nhận rằng câu chuyện đáo hạn TPDN BĐS có thể nói đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất (từ tháng 6 - 8.2023), sau khi có Nghị định 08 cho phép đàm phán giãn, hoãn nợ.
Về cơ bản, 60% doanh nghiệp đã gia hạn được 2 năm (điểm rơi tháng 6.2025), doanh nghiệp chủ động mua lại trái phiếu theo điều kiện phát hành và bắt đầu phát hành trở lại giảm áp lực vốn. Ngoài ra, thị trường BĐS ấm lên, doanh nghiệp sẵn sàng bán tài sản để trích ra một phần trả nợ. Do vậy, hiện tượng vỡ nợ ít khả năng xảy ra vì khó khăn nhất đã qua.
“Ở Việt Nam, doanh nghiệp bình thường phá sản đã khó thì doanh nghiệp có nợ trái phiếu phá sản càng khó vì đống nợ trái phiếu còn đó, câu chuyện giải quyết ra sao. Tuy nhiên, Nghị định 08 đã hết hiệu lực thì thực hiện Nghị định 65 có cho phép đàm phán, giãn, hoãn nợ không? Đây là điều cơ quan quản lý cần làm rõ”, ông Lực nói.
Nên cho phá sản những “zombie” trái phiếu
Liên quan đến vấn đề này, ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng giám đốc FiinRatings cho rằng nợ quá hạn là vấn đề lớn nhất của thị trường TPDN thời kỳ 2024-2025.
“Việc hỗ trợ không nên chỉ tập trung vào giải cứu trái phiếu mà quan trọng nhất là tháo gỡ pháp lý BĐS. Khi tháo gỡ được vấn đề này thì việc xử lý nợ quá hạn rất dễ”, ông Thuân kiến nghị.
Mặc dù vậy, trên thực tế, một số doanh nghiệp hiện nay tồn tại như những “zombie”, không có khả năng trả nợ trái phiếu. Theo TS Lê Xuân Nghĩa - chuyên gia kinh tế, giải pháp khả thi nhất với các trường hợp này là cho phép phá sản.
"Đối với vấn đề xử lý các vụ việc không trả nợ gốc/lãi trái phiếu đúng hạn làm mất niềm tin nhà đầu tư, tôi cho rằng giải pháp khắc phục cơ bản nhất là phá sản. Doanh nghiệp nào không thể trả được nợ, tình trạng quá tệ nên cho phá sản và nhà đầu tư cần học cách chấp nhận rủi ro, thiệt hại", ông Nghĩa đề xuất.
Ông Đỗ Ngọc Quỳnh, Tổng thư ký Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam cho rằng việc hoàn thiện và nâng cao hiệu lực Luật Phá sản là rất quan trọng. Mọi sự phát triển dựa trên quy luật đào thải, nếu không sẽ như "cơ thể ăn không tiêu sẽ có rất nhiều bệnh".
“Nghị định 08 cho phép đàm phán gia hạn nhưng các nhà đầu tư cá nhân không có năng lực đánh giá về trái phiếu phát hành nên khi doanh nghiệp đặt ra yêu cầu gia hạn, nhà đầu tư cá nhân rơi vào tình trạng hoảng, buộc phải chấp nhận đàm phán gia hạn. Mặt khác, hiện chưa có câu trả lời cho câu hỏi "nếu không chấp nhận thì phải kiện doanh nghiệp kiểu gì?". Nếu cứ gia hạn với những doanh nghiệp không thể phục hồi thì tình hình có thể còn tệ hơn nữa”, ông Quỳnh thẳng thắn.
Theo ông Quỳnh, trong cuộc khủng hoảng 2008-2011, khi Lehman Brothers phá sản, rất nhiều nhà đầu tư mini bonds của tổ chức này bị mất tiền, trong có nhà đầu tư ở Hong Kong.
Nhà đầu tư cá nhân Hong Kong lúc đó cũng đổ lỗi cho chính quyền thiếu trách nhiệm - cho phép bán sản phẩm mà chính chính quyền cũng không hiểu, cơ quan xếp hạng tín nhiệm cũng xếp hạng sai.
Sau đó, Hong Kong mới đưa ra một công cụ bắt buộc trong quá trình chào bán phải có là danh sách liệt kê toàn bộ rủi ro đối với sản phẩm tài chính, yêu cầu nhà đầu tư mua phải đọc và ký, chấp nhận hoàn toàn rủi ro liên quan.
“Thực tế, không có sản phẩm tài chính nào không có rủi ro, chỉ có ít hay nhiều. Mỗi nhà đầu tư dựa theo kiến thức của mình cần xác lập khẩu vị rủi ro riêng. Do vậy, việc xây dựng cơ chế để đảm bảo tất cả nhà đầu tư có kiến thức chuyên nghiệp khó. Cơ quan quản lý phải xây dựng chính sách có mục tiêu, phù hợp bối cảnh, có khuôn khổ bảo vệ lợi ích nhà đầu tư cá nhân một cách hợp lý chứ không bảo vệ hoàn toàn”, ông Quỳnh nêu.