Có thể thông qua các nghị quyết về thuế tối thiểu toàn cầu vào tháng 10
Tài chính và đầu tư - Ngày đăng : 10:15, 27/07/2023
Dự kiến trình Quốc hội thông qua vào tháng 10
Về cơ sở pháp lý quốc tế, tháng 10.2021, OECD đặt ra mức thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu 15% đối với các công ty đa quốc gia nhằm ngăn những công ty này chuyển lợi nhuận sang quốc gia có thuế suất thấp để tránh thuế.
Về cơ sở thực tiễn, việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu dự kiến sẽ tác động sâu rộng đến tính cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh nước ta, cần kịp thời có giải pháp phù hợp. Đến nay, 142/142 nước thành viên của Diễn đàn hợp tác toàn cầu về chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS) đã đồng thuận. Tại ASEAN, một số nước đã có kế hoạch áp dụng quy định thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024.
Do đó, việc sớm áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu tại Việt Nam là cần thiết để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam; đồng thời, việc nghiên cứu, bổ sung các hình thức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư mới trong bối cảnh thực thi thuế tối thiểu toàn cầu là cần thiết nhằm đảm bảo khả năng cạnh tranh và tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam trong giai đoạn tới.
Về 2 nội dung này, Thủ tướng giao Bộ Tài chính, Bộ KH-ĐT chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan tiếp thu tối đa ý kiến của Chính phủ, hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng 2 nghị quyết; gửi Bộ Tư pháp để thẩm định. Căn cứ ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, các bộ chủ trì tiếp thu, giải trình, hoàn thiện hồ sơ, trình Chính phủ.
Sau khi Chính phủ quyết nghị thông qua đề nghị xây dựng 2 nghị quyết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ trong tháng 7 để báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung dự án 2 nghị quyết nêu trên vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 và cho phép xây dựng dự thảo nghị quyết theo trình tự, thủ tục rút gọn, trình Quốc hội thông qua theo quy trình một kỳ họp (tháng 10.2023).
Cải cách hệ thống thuế
Thực tế, gần tới thời điểm áp dụng của các quy tắc trụ cột 2 về thuế tối thiểu toàn cầu, nhiều quốc gia đã và đang thể hiện những phản ứng nhanh và tích cực trong việc thực thi các quy tắc này. Xem xét ảnh hưởng của các quy tắc này đến các quốc gia, thì Việt Nam thuộc nhóm các nước nhận đầu tư (nhập khẩu vốn).
Trong cuộc chơi này, mỗi quốc gia đều có sự tự chủ nhưng đều phải chủ động để bảo về quyền lợi của chính mình vì không có cách nào để đứng ngoài cuộc.
Theo bà Nguyễn Thy Nga (Viện Quản trị chính sách và chiến lược phát triển), Việt Nam cần tiến hành đẩy nhanh truyền thông chính sách, lấy ý kiến cộng đồng khoa học và doanh nhân về thực tế của trụ cột 2... trong bối cảnh mỗi ngày lại có thêm nhiều quốc gia ban hành chính sách và áp dụng sớm chính sách về thuế tối thiểu toàn cầu.
Theo đó, trong ngắn hạn, Việt Nam cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng nội luật áp dụng cơ chế thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn để giành quyền thu thuế. Điều này có thể bắt đầu thí điểm từ tháng 11.2023 và mở rộng hơn với tháng 12.2023 và thông báo chính thức chủ trương vào ngày 1.1.2024 khi thuế suất tối thiểu toàn cầu có hiệu lực.
Trong dài hạn, theo bà Nga, hệ thống thuế cùng với các ưu đãi thuế cũng cần được xem xét cải cách nhằm hạn chế tác động tiêu cực của trụ cột 2, đảm bảo thu hút đầu tư thực chất, hạn chế các hoạt động làm xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận.
“Việc ban hành chính sách hoặc cơ chế mới cần được xem xét cẩn trọng để đảm bảo tính công bằng cho các doanh nghiệp thuộc phạm vi và không thuộc phạm vi điều chỉnh của trụ cột 2. Điều này cần đảm bảo thống nhất với quy định về bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư theo Luật Đầu tư hiện tại, cũng như không vi phạm các cam kết quốc tế và quy định của OECD mà Việt Nam đang tham gia”, bà Nga nói.
Ngoài ra, bà Nga cũng cho rằng đối với việc hỗ trợ các doanh nghiệp đa quốc gia bị ảnh hưởng bởi trụ cột 2, Việt Nam nên chủ động lấy ý kiến và mời góp ý xây dựng hệ thống ưu đãi thuế để phù hợp hơn trong bối cảnh triển khai thuế suất, nhằm bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp này khi đầu tư tại Việt Nam để khuyến khích đầu tư, mở rộng đầu tư.
“Việt Nam nên tạo cơ chế thuận lợi để khuyến khích các doanh nghiệp FDI bổ sung thuế tại Việt Nam, nâng cao năng lực dự báo và phòng ngừa các khủng hoảng chính sách có thể xuất hiện khi thay đổi về thuế; đồng thời đẩy mạnh việc phát triển năng lực cạnh tranh quốc gia, phát triển cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn lao động, hệ thống pháp lý…”, bà Nga nêu.
Thời gian còn lại rất ít
Chuyên gia kinh tế, TS Cấn Văn Lực cho rằng để bù đắp một phần cho các đối tượng sẽ chịu tác động, Việt Nam cần có chính sách, biện pháp ứng xử phù hợp đối với 2 nhóm nhà đầu tư.
Đối với những nhà đầu tư FDI đang hoạt động tại Việt Nam (có thể có hỗ trợ về tiền thuê đất, cho phép tính một số khoản được khấu trừ thuế, đào tạo nguồn nhân lực, chi phí R&D, giải phóng mặt bằng, nhà ở công nhân...; nên áp dụng mức độ khác nhau với nhóm nhà đầu tư, loại dự án khác nhau).
Đối với những nhà đầu tư FDI sẽ vào Việt Nam từ đầu năm 2024 (có thể áp dụng một số chính sách hỗ trợ tương tự, thậm chí cao hơn đối với các lĩnh vực ưu tiên thu hút FDI).
“Khẩn trương ưu tiên kiện toàn và nâng cao năng lực công tác quản lý thuế, công tác cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh vì những công tác này ngày càng nhiều, ngày càng phức tạp, tinh vi, có tính hội nhập cao, xuyên biên giới, cạnh tranh”, ông Lực nói, và cho rằng thời gian còn rất ít, đòi hỏi rất khẩn trương, đồng bộ, đồng nhịp và vì cái chung, vì môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, trên tinh thần “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”.