Thanh Hóa: Đình chỉ vụ kiện 9 năm giữa Công ty Cấp nước và Công ty Thảo Trung

Theo dòng thời sự - Ngày đăng : 17:41, 28/10/2021

TAND TP Thanh Hóa vừa ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự giữa Công ty cổ phần Cấp nước Thanh Hóa (nguyên đơn) và Công ty cổ phần Thảo Trung (bị đơn).

Được biết, vụ kiện hợp đồng kinh tế này kéo dài đã 9 năm và tòa phúc thẩm đã 2 lần hủy bản án của tòa sơ thẩm.

Quyết định nêu rõ, từ cuối năm 2008 đến nay, giữa 2 công ty vẫn chưa hoàn tất các hồ sơ, thủ tục quyết toán và hoàn công nội bộ. Ngoài ra, đã hết thời hạn mà nguyên đơn vẫn không cung cấp được chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện. Do đó, tòa quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, thuộc trường hợp không đủ điều kiện khởi kiện.

Số liệu nợ không thống nhất

Trước đó, ngày 27.12.2007, Công ty Thảo Trung ký với UBND phường Hàm Rồng, TP Thanh Hóa (chủ đầu tư) hợp đồng xây lắp số 06 về việc thi công xây dựng công trình hệ thống cấp nước khu du lịch hồ Kim Quy và làng cổ Đông Sơn, TP Thanh Hóa.

Ngày 28.12.2007, được sự đồng ý của UBND phường Hàm Rồng, Công ty Thảo Trung ký hợp đồng số 102 về việc thi công dự án trên với Công ty Cấp nước theo hình thức giao thầu trọn gói.

Hợp đồng số 102 được 2 bên ký kết trên cơ sở hợp đồng 06, có giá trị ban đầu là hơn 3,3 tỉ đồng. Sau đó 2 bên ký phụ lục hợp đồng điều chỉnh bổ sung dự án hơn 1,12 tỉ đồng, nâng tổng giá trị hợp đồng lên thành hơn 4,43 tỉ đồng. Ngày 30.9.2008, công trình được nghiệm thu, đưa vào sử dụng.

dinh-chi.png
Quyết định đình chỉ vụ án

Sau đó, Công ty Cấp nước Thanh Hóa yêu cầu Công ty Thảo Trung thanh toán số tiền còn thiếu theo hợp đồng 102 và phụ lục hợp đồng ngày 10.9.2008 là 1,41 tỉ đồng.

Công ty Thảo Trung không đồng ý vì trong quá trình thực hiện hợp đồng, 2 bên chưa lập hồ sơ quyết toán nên chưa thống nhất được số nợ. Các văn bản yêu cầu trả nợ do không có hồ sơ gốc nên số liệu không thống nhất, không đảm bảo về mặt pháp lý.

Cụ thể, ngày 31.10.2012 công văn số 03 đòi nợ số tiền là 1,93 tỉ đồng; ngày 15.3.2013 công văn số 49 đòi nợ số tiền là 2,08 tỉ đồng; ngày 15.9.2014 có công văn số 223 đòi nợ số tiền là 2,13 tỉ đồng; ngày 15.11.2013 công văn số 293 đòi nợ số tiền Ịà 1 tỉ đồng; ngày 7.7.2015 có công văn số 181 đòi nợ số tiền là 1,41 tỉ đồng.

Đồng thời Công ty Thảo Trung cho biết họ trực tiếp thi công 30% công trình nên yêu cầu thanh toán 100% công trình là không đúng.

Nhiều dấu hỏi về hồ sơ khởi kiện

Công ty Thảo Trung cũng cho rằng hồ sơ khởi kiện của Công ty Cấp nước có dấu hiệu không bình thường. Ở hồ sơ quyết toán tháng 11.2008, nếu đúng 2 bên đã ký thì đó là số liệu giá trị chốt cuối cùng giữa 2 bên. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án có rất nhiều văn bản phát hành sau thời gian tháng 11.2008.

Cụ thể, ngày 15.12.2008, hai công ty ký biên bản cho Công ty Cấp nước vay khối lượng để hoàn thành kế hoạch nội bộ; ngày 11.3.2009 Công ty Cấp nước có văn bản đề nghị Công ty Thảo Trung cho mượn hồ sơ quyết toán và hồ sơ hoàn công để tập hợp và hoàn thiện theo thủ tục pháp lý. Công ty Thảo Trung mong muốn Công ty Cấp nước trả lại sơ quyết toán để làm rõ thực hư.

Tại phiên tòa sơ thẩm vào tháng 6.2016, tòa buộc Công ty Thảo Trung phải thanh toán số tiền hơn 1,4 tỉ đồng.

Không đồng ý với bản án, vào tháng 6.2016, Công ty Thảo Trung kháng cáo; đồng thời có đơn đề nghị giám định tài liệu Công ty Cấp nước cung cấp cho tòa án là bản chứng thực “Phụ lục hợp đồng xây dựng” và “Biên bản bàn giao công trình đưa vào sử dụng” vì đây là tài liệu giả.

Ở phiên phúc thẩm, TAND tỉnh Thanh Hóa nhận định: Bản gốc của Phụ lục hợp đồng xây dựng và bản gốc “Phụ lục khối lượng đơn giá” đề ngày 10.9.2008 do nguyên đơn xuất trình từ trang 8 - 13 có đóng dấu giáp lai nhưng không liền mạch; nhiều bản photo thường; trang số 9 thể hiện giá trị điều chỉnh, bổ sung hợp đồng lại không đóng dấu giáp lai.

Ngoài ra, bản chứng thực “phụ lục hợp đồng xây dựng” tại phiên sơ thẩm không thể hiện ngày tháng, trong khi bản xuất trình tại phiên phúc thẩm lại ghi ngày 10.8.2008. Do đó, bản gốc và bản sao công ty cấp nước cung cấp không trùng khớp, trong khi đây là nguồn chứng cứ quan trọng.

Tòa phúc thẩm 2 lần hủy bản án tòa sơ thẩm

Tòa phúc thẩm cũng nhận định việc tòa cấp sơ thẩm căn cứ vào các tài liệu này để đánh giá chứng cứ và xét xử là chưa đầy đủ. Do đó, tòa phúc thẩm đã hủy án tòa sơ thẩm đã tuyên trước đó.

ta.jpg
Tòa án Nhân dân tỉnh Thanh Hóa

Đến ngày 14.4.2017, TAND TP Thanh Hóa thụ lý lại vụ án. Công ty Cấp nước giữ nguyên trình bày và yêu cầu khởi kiện ban đầu.

Trong khi đó, Công ty Thảo Trung nêu thêm, kết luận giám định của Bộ Quốc phòng nêu: Hình dấu “Chứng thực sao đúng với bản chính” cần giám định với hình dấu “Chứng thực sao đúng với bản chính” mẫu so sánh không phải cùng một con dấu đóng ra; Hình dấu tròn mang tên “UBND Phường Ngọc Trạo, TP Thanh Hóa” trên tài liệu cần giám định với hình dấu tròn cùng tên trên mẫu so sánh không phải do cùng một con dấu đóng ra.

Tại bản án này, TAND TP Thanh Hóa quyết định Công ty Thảo Trung thanh toán cho Công ty Cấp nước số tiền hơn 1,4 tỉ đồng. Ngay sau đó, Công ty Thảo Trung tiếp tục kháng cáo, đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của Công ty Cấp nước.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận thấy hồ sơ quyết toán nộp tại phiên tòa nhiều văn bản là bản sao, trong đó hợp đồng số 102, phụ lục khối lượng đơn giá ngày 28.12.2008 được giám định là không cùng một con dấu đóng ra; các biên bản nghiệm thu nhiều bản không được đóng dấu giáp lai; biên bản bàn giao dự án hoàn thành ngày 30.9.2008 có chữ ký của ông Đỗ Ngọc Thắng nhưng ông Thắng khẳng định không ký vào bản nghiệm thu.

Do đó, Hội đồng xét xử cho rằng hồ sơ, tài liệu, chứng cứ chứng minh trong vụ án nộp cho tòa chưa đảm bảo quy định để làm căn cứ đánh giá xem xét, kết luận. Ngoài ra, từ cuối năm 2008 đến 2014, 2015, giữa 2 bên vẫn chưa hoàn tất được các hồ sơ, thủ tục quyết toán và hoàn công nội bộ. Hai bên còn có nhiều văn bản yêu cầu qua lại và chưa thống nhất được khối lượng và giá trị công trình mà Công ty Cấp nước đã thực hiện theo hợp đồng số 102 đã ký.

Vì vậy Công ty Cấp nước xuất trình hồ sơ quyết toán tháng 11.2008 để làm căn cứ cho việc yêu cầu Công ty Cấp nước thanh toán số tiền còn nợ hơn 1,4 tỉ đồng là chưa đủ cơ sở để kết luận.

Theo đó, tòa phúc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm đã tuyên trước đó, trả hồ sơ về cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung.

Hoài Lam