Động lực nào cho tăng trưởng kinh tế VN 2021?
Thị trường và chính sách - Ngày đăng : 15:28, 28/04/2021
Công nghiệp chế biến chế tạo
Theo báo cáo công bố sáng 28.4 của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), nền kinh tế nước ta được dự báo sẽ tăng trưởng 6,7% trong năm 2021 và 7,0% trong năm 2022 - đây là mức tăng trưởng mạnh và vững chắc có được nhờ thành công của Việt Nam trong việc kiềm chế đại dịch COVID-19.
Các động lực tăng trưởng sẽ là công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến chế tạo định hướng xuất khẩu, đầu tư gia tăng và thương mại mở rộng. Công nghiệp dự báo sẽ tăng 9,5% trong năm 2021, đóng góp 3,5 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP.
Các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước mới được dự báo sẽ thành lập nhờ có vắc xin COVID-19 tạo thuận lợi cho việc đi lại trong nước cũng như cho các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam.
Sự phục hồi của các đối tác thương mại lớn sẽ làm tăng nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu. Xây dựng được dự báo sẽ tăng nhanh khi chính phủ tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án hạ tầng lớn trong năm 2021 và lãi suất thấp kích thích hoạt động xây dựng bất động sản.
Khu vực dịch vụ được dự báo sẽ phục hồi tăng trưởng ở mức 6,0% trong năm 2021, đóng góp 2,3 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP. Tăng trưởng khu vực dịch vụ đến từ tiến trình chuyển đổi số, tăng chi tiêu vào vắc xin COVID-19, niềm tin kinh doanh cải thiện và mặt bằng lãi suất thấp.
Khu vực nông nghiệp cũng được dự báo sẽ hoạt động mạnh hơn trong năm nay nhờ các cải cách cơ cấu được duy trì, cải thiện tiếp cận thị trường đối với hàng nông sản xuất khẩu theo các hiệp định thương mại tự do khu vực, và giá lương thực toàn cầu cao hơn do nhu cầu tăng.
Sự đầu tư gia tăng cũng sẽ là một động lực tăng trưởng then chốt trong năm nay và năm sau. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký tăng 17,8% trong quý 1/2021 so với quý 1 năm trước. Tăng trưởng tổng vốn đầu tư toàn xã hội sẽ tiếp tục được đẩy mạnh nhờ đầu tư tư nhân, vốn đã tăng đáng kể, với yếu tố xúc tác là mặt bằng lãi suất thấp và chi tiêu công tăng.
Tiêu dùng cá nhân dự báo sẽ phục hồi song song với đầu tư tư nhân và lạm phát thấp. Lòng tin của doanh nghiệp gia tăng, phản ánh qua kết quả điều tra doanh nghiệp tháng 12.2020 trong đó 80% doanh nghiệp được điều tra dự báo tình hình kinh doanh trong năm 2021 sẽ khá hơn hoặc giữ ổn định.
Lạm phát trong quý 1/2021 giảm xuống mức thấp nhất từ năm 2016 do chi phí vận tải giảm và nhu cầu yếu. Nhưng giá dầu thế giới đang tăng trong xu hướng kinh tế toàn cầu phục hồi và tiêu dùng trong nước cũng tăng dự báo sẽ làm cho lạm phát tăng lên 3,8% trong năm nay, và 4,0% trong năm 2022.
Thương mại sẽ tiếp tục duy trì mạnh mẽ trong năm 2021, được hỗ trợ bởi sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ ở Trung Quốc và Mỹ, hai đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, và nhờ Việt Nam tham gia vào 15 hiệp định thương mại tự do lớn với hầu hết các nền kinh tế phát triển trên thế giới.
Tăng trưởng tín dụng sẽ cải thiện trong năm 2021, được hỗ trợ bởi các đợt cắt giảm lãi suất trong năm 2020 và nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp phục hồi. Ngân hàng nhà nước đặt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán là 12,0% trong năm nay.
Sự gia tăng trên thị trường chứng khoán và bất động sản từ cuối quý 1/2021, dự báo tỷ lệ nợ xấu tăng khi đại dịch qua đi và lạm phát tăng nhẹ trong năm 2020 mặc dù tăng trưởng giảm – tất cả những yếu tố này đều không ủng hộ cho việc tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ trong những tháng tới.
Tuy nhiên, chính sách tài khóa sẽ tiếp tục mở rộng do nhu cầu chi tiêu cho các chương trình an sinh xã hội, chăm sóc y tế và tiêm vắc xin, cũng như khả năng thực hiện hỗ trợ tài khóa bổ sung. Điều này có thể dẫn đến khả năng làm tăng thâm hụt tài khóa lên mức cao hơn mục tiêu bội chi ngân sách cho năm 2021 ở mức 4,0% GDP.
Đại dịch làm giảm thu nhập
Theo ADB, rủi ro chính theo chiều hướng tiêu cực là đại dịch bùng phát trở lại do các biến thể coronavirus mới và chậm trễ trong triển khai chương trình vắc xin. Nếu chậm trễ trong triển khai vắc xin ngừa COVID-19 sẽ có thể tác động ngay đến khả năng Việt Nam quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng mạnh mẽ như trước khi có dịch, khi tính đến sự phụ thuộc của nền kinh tế vào nhu cầu bên ngoài.
Sự phục hồi nhanh chóng của đầu tư tư nhân trong nước cũng có thể làm gia tăng rủi ro bong bóng tài sản nếu như nguồn vốn không được dẫn hướng vào các lĩnh vực sản xuất. Xét từ góc độ tích cực, sự phục hồi nhanh hơn dự kiến của Trung Quốc và Mỹ có thể làm triển vọng thương mại và tăng trưởng gia tăng đáng kể.
Tính toán của ADB vào tháng 12.2020 cho thấy tác động đáng kể của đại dịch COVID-19 đối với thu nhập. Đặc biệt, tác động của đại dịch sẽ làm giảm thu nhập trên đầu người của hộ gia đình trung bình 9,8%, và nhóm có thu nhập thấp nhất sẽ bị giảm đến 10,2% thu nhập.
Do các hộ gia đình ở nông thôn cung cấp lao động di cư nhiều hơn nên họ sẽ bị tổn thất thu nhập từ nguồn người lao động di cư gửi tiền về nhà nhiều hơn so với các hộ gia đình ở đô thị, và các hộ gia đình có phụ nữ làm chủ hộ sẽ bị tổn thất kiều hối cả từ nước ngoài lẫn trong nước nhiều hơn so với hộ gia đình do nam giới làm chủ hộ.
Tính toán của ADB cũng cho thấy sự gia tăng tỷ lệ hộ nghèo trong nhóm dân tộc thiểu số sẽ thấp hơn so với hộ nghèo trong nhóm không thuộc dân tộc thiểu số, nhưng số người nghèo thuộc các hộ nghèo dân tộc thiểu số lại lớn hơn, do vậy tính theo số tuyệt đối thì số này sẽ tăng nhiều hơn hẳn so với số người nghèo sống trong các hộ không thuộc dân tộc thiểu số.
Để ứng phó với tác động của đại dịch COVID-19 đối với thu nhập và nghèo đói, vào ngày 9.4.2020 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 42 về Chương trình an sinh xã hội với trị giá tương đương 0,25 GDP (xấp xỉ 0,5 tỉ USD) để trợ cấp cho các cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp.
Nghị quyết 42 được kỳ vọng sẽ giúp làm giảm tỷ lệ nghèo năm 2020 1,3 điểm phần trăm, xuống còn 4,9%. Tuy nhiên tiến độ giải ngân theo Nghị quyết 42 khá chậm. Tính đến cuối năm 2020 mới chỉ có một nửa nguồn tiền chính sách được giải ngân do thiếu các tiêu chí lựa chọn rõ ràng và một hệ thống giải ngân chuyên trách.
Mặc dù Nghị quyết 42 có thể có hiệu quả giảm nghèo tốt, nhưng chỉ một chương trình này chưa đủ để đưa những nhóm dễ bị tổn thương nhất thoát nghèo do hạn chế về quy mô số tiền và khoảng cách nghèo còn lớn.
Chương trình trợ giúp cho người dân cần phải được tăng cường để giúp các nhóm nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất không tiếp tục bị mất thu nhập.
Do tác động của COVID-19 đối với các đối tượng khác nhau là rất khác nhau, nên cần ưu tiên hỗ trợ cho những đối tượng làm việc trong những lĩnh vực, ngành nghề bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Kế sách lâu dài, bền vững hơn phải là giúp cho người nghèo và người dễ bị tổn thương đa dạng hóa được sinh kế của họ, ví dụ thông qua đào tạo nghề ngắn hạn và cải thiện tiếp cận với tín dụng vi mô để hỗ trợ thành lập doanh nghiệp mới.