GS Nghiêm Toản, GS Hoàng Xuân Hãn nói về giảng dạy tiếng Việt, tiếng Hán
Góc bình luận - Ngày đăng : 05:23, 07/09/2016
Tôi học trung học (lớp 6 – lớp 12) theo chương trình Miền Nam trước năm 1975. Năm lớp 6 có học chữ Hán. Thật ra, năm đó chỉ học vài tiết, chủ yếu để biết viết một số từ Hán Việt như nhất, nhị, tam hay thiên (trời), thượng (trên) thôi. Năm lớp 10 được GS Nghiêm Toản, do quen biết riêng, kèm chữ Hán 1 năm nữa theo ý muốn riêng của gia đình. Lên đại học, tôi theo ngành kỹ thuật và vào đời với ngành kỹ thuật.
Tôi thấy cái lợi của việc biết tiếng Hán là vốn từ vựng tiếng Việt trong tôi phong phú hơn, có thể diễn đạt các ý nghĩ đa dạng của mình một cách chính xác và tế nhị hơn. Do tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán nên vốn tiếng Hán giúp tôi tránh các sai lầm trong dùng từ như “yếu điểm” thay vì “điểm yếu”… mà thỉnh thoảng báo chí hiện nay vẫn có khi lẫn lộn…
Tuy nhiên cái lợi đó có đủ lớn và ý nghĩa thực dụng của nó có đủ quan trọng để chúng ta dạy chữ Hán cho học sinh bậc trung học như TS Đoàn Lê Giang nêu lên hay không? Bài viết này xin ghi lại các ý kiến có liên quan của GS Nghiêm Toản và học giả Hoàng Xuân Hãn với hy vọng giúp vào đề tài gây nhiều tranh luận gần đây.
GS Nghiêm Toản là thầy dạy tại trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn những năm 50, 60 thế kỷ trước. Ông cho rằng lịch sử đất nước khiến dân Việt đem nhiều thành tố tiếng Hán vào trong tiếng Việt, do đó cần biết tiếng Hán để làm phong phú hơn tiếng Việt của chúng ta. Tôi còn nhớ ông nói, đại ý rằng:
“Cách người dân ta dùng tiếng Hán cho thấy mức độ dẻo dai để tồn tại của người Việt trước áp lực đồng hóa của người Hoa. Trước khi bị Bắc thuộc, người Việt đã có tiếng Việt của riêng mình, nhưng không biết đã có chữ viết chưa. Một ngàn năm bị Hoa trị, người Việt không để mất tiếng nói của mình, lại có thêm tiếng Hán, và tiếng Hán này dần dần được Việt hóa trở thành yếu tố Hán-Việt trong tiếng Việt. Sau khi độc lập, người Việt lại biết dùng cách viết chữ Hán mà tạo ra chữ viết cho tiếng Việt, tức là chữ Nôm. Cho tới gần đây, người Việt lại biết dùng chữ Quốc ngữ tiện lợi hơn thay thế chữ Hán và chữ Nôm. Cho nên yếu tố Hán-Việt trong tiếng Việt không cho thấy tính lệ thuộc của người Việt, mà trái lại càng cho thấy tính độc lập dẻo dai của người nước ta. Biết cách dùng yếu tố Hán-Việt cộng với dùng chữ Quốc ngữ, chúng ta tạo ra một ngôn ngữ Việt Nam đủ sức diễn tả tinh tường và truyền bá rộng rãi các ý niệm, khái niệm kỹ thuật và triết học khó hiểu nhất ”.
Tôi có thể thưa với các anh chị rằng GS Nghiêm Toản đã truyền cho tôi sự rung động vì lòng tự hào với tinh thân độc lập, tự chủ của ông cha trước người Trung quốc.
Sau này, tôi lại có dịp học hỏi với GS Hoàng Xuân Hãn. Ông là một bậc túc nho Âu học mà tấm lòng, ý chí và sự đóng góp cho nền độc lập nước nhà trên bảy mươi năm trước còn được nhiều người Việt Nam thời nay ghi nhớ. Ông là nhân vật chính chuyển đổi nền giáo dục Việt Nam từ Pháp ngữ sang Việt ngữ một cách căn bản. GS Hoàng Xuân Hãn đồng quan điểm với GS Nghiêm Toản như trình bày bên trên. Nhưng về phương diện giáo dục thì ông bàn luận như sau, cũng xin ghi lại đại ý:
“Trong giáo dục, tôi chủ trương thực tế. Quốc dân cần biết kỹ thuật phương Tây, cần biết học thuật phương Tây. Mình cần một ngôn ngữ càng giản dị, càng dễ hiểu càng tốt để dân mình học được nhanh. Muốn giản dị mà đủ ý thâm sâu, mình cần vận dụng các yếu tố Hán-Việt. Tôi nghĩ người mình không cần học Hán văn, nhưng cần học một căn bản Hán-Việt để có danh từ khoa học mà học hỏi kiến thức thế giới. Căn bản Hán-Việt giúp ta làm giàu có và hàm súc hơn tiếng nước ta, cùng với đó ta dùng chữ Quốc ngữ phổ biến kiến thức rộng rãi cho quốc dân. Quốc dân cũng nên biết nguồn gốc của yếu tố Hán-Việt, chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ… trong ngôn ngữ nước mình”.
GS Hãn trình bày ý của ông rất rõ:
“Tôi nghĩ bậc trung học mình có môn Việt văn. Học sinh ở một lớp thích hợp, như lớp troisième chẳng hạn (tức lớp 9) thì ta dành một số giờ học của môn Việt văn mà học về Hán-Việt, chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ… Học về chữ Hán chứ không phải học Hán văn. Mục đích là để người đi học biết nguồn gốc và phân biệt được các loại chữ viết trong ngôn ngữ Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Chỉ cần cái căn bản vậy thôi. Sau này, ai theo ngành Hán Nôm, ngành Cổ Văn, ngành Sử ký sẽ học sâu hơn chữ Hán, chữ Nôm. Ai theo các ngành kỹ thuật không cần học thêm, nhưng cũng đã có cái căn bản để không bị lầm lạc khi dùng tiếng Việt thông dụng và tiếng Việt khoa học, kỹ thuật. Khi cần, những người này có thể dùng tự điển Hán-Việt do các người chuyên môn soạn thảo”.
Trong cuộc sống đời thường, tôi thấy không ít người không có khái niệm rõ rệt về tiếng Việt, tiếng Hoa, chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ… Ý của GS Hoàng Xuân Hãn là nên giảng dạy ở bậc trung học để người học hiểu và phân biệt được các khái niệm ấy một cách minh tường. Chú ý rằng GS Hãn chủ trương không nên giảng dạy chữ Hán ở bậc học này.
Đọc các bài viết của TS Đoàn Lê Giang, về mặt học thuật, tôi thông cảm với ông. Chúng ta thường bắt gặp các lỗi về dùng chữ (từ vựng) và lỗi đặt câu (văn phạm) trên báo chí hiện nay, kể cả các tờ báo nghiêm túc, kể cả trong các bài viết về những đề tài văn hóa, nghệ thuật…Trước năm 1975, báo chí Miền Nam thường có các mục như “Nhặt Sạn” hay “Nhổ Cỏ Vườn Văn”… nhằm lượm lặt và phân tích các lỗi ấy. Các mục này góp phần giữ gìn và phát triển sự giàu có và trong sáng của tiếng Việt. Người phụ trách mục ấy cần có căn bản Hán-Việt vững chắc, uyên thâm. Đây mới là những người, tôi nghĩ, cần học chữ Hán. Còn người đọc bình thường thì không cần mất thì giờ học. Chúng ta còn cần phải bỏ thêm một số môn học vô bổ, nặng nề, kìm hãm tri thức để con em chúng ta có thì giờ thư giãn, hưởng thụ văn hóa, phát triển ước mơ, hoài bão và học hỏi các kỹ năng sống trong môi trường sống tiến bộ…
Là người quan tâm tới đề tài, nhưng không nằm trong chuyên môn, tôi chỉ xin ghi lại ý kiến các bậc có thẩm quyền vài mươi năm trước…
Lê Học Lãnh Vân