BS Trần Thị Huyên Thảo: 7 câu hỏi cần làm rõ về bệnh tay chân miệng
Khoa học - công nghệ - Ngày đăng : 11:02, 08/10/2018
Tại Việt Nam, bệnh xảy ra quanh năm. Bệnh TCM ở người hoàn toàn khác với bệnh lở mồm long móng ở súc vật. Hai bệnh này không liên quan gì đến nhau và gây ra bởi hai nhóm virus hoàn toàn khác nhau.
1. Tác nhân gây bệnh là gì?
Bệnh TCM gây ra bởi một nhóm virus có tên là enterovirus, nhóm này có nhiều chủng nhỏ khác nhau. Coxsakievirus A16 là virus gây bệnh phổ biến nhất, bệnh với virus này thường nhẹ, tự hết và ít biến chứng. Enterovirus, đặc biệt là Enterovirus 71, là loại thường có liên quan đến những biến chứng nguy hiểm, và tử vong, tuy nhiên, số ca do virus này gây ra không nhiều.
2. Bệnh nghiêm trọng không?
Đa số các trường hợp bị TCM phục hồi hoàn toàn, không biến chứng trong 7-10 ngày. Mất nước là biến chứng phổ biến nhất của TCM do Coxsackievirus, do trẻ bị đau miệng và không chịu ăn uống gì. Nhưng trong một số ít trường hợp, đặc biệt các ca do Enterovirus 71, bệnh có thể có biến chứng viêm màng não, viêm não, và có thể trở nên nghiêm trọng.
3. Diễn tiến bệnh ra sao?
Bệnh TCM rất dễ lây từ người này sang người khác qua tiếp xúc trực tiếp với dịch mũi, miệng, nước miếng, dịch từ các bọng nước, và phân người bệnh. Người bệnh thường dễ lây cho người khác nhất trong tuần đầu tiên mắc bệnh. Bệnh TCM không truyền qua người từ nguồn súc vật hoặc thú nuôi trong nhà.
Bệnh TCM đa số xảy ra ở trẻ dưới 10 tuổi, phổ biến nhất ở trẻ dưới 5 tuổi. Trẻ càng nhỏ càng dễ có triệu chứng nặng hơn. Đa số người lớn đã có miễn dịch đầy đủ nên ít bị bệnh, nhưng cũng có những ca TCM được báo cáo ở trẻ vị thành niên và người trưởng thành. Thông thường, thời gian ủ bệnh là 3-7 ngày.
Khi phát bệnh, sốt là triệu chứng thường gặp đầu tiên, và trẻ thường chỉ sốt trong 1-2 ngày đầu. Khi đó, trẻ cũng có những dấu hiệu rất chung chung, không đặc hiệu, như kém ăn, mệt mỏi, và thường than đau họng (nhưng chưa có loét).
Sau khi sốt 1-2 ngày trẻ bắt đầu có những vết chấm đỏ trong miệng, dần phát triển thành bọng nước và vỡ ra thành vết loét. Những vết loét này thường xuất hiện ở lưỡi, lợi, và vòm hầu, họng, mặt trong má. Sẩn da cũng xuất hiện trong thời gian này, với những chấm đỏ, phẳng hoặc gồ lên, và nhiều khi phát triển thành bọng nước, thường phân bố ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, mông, vùng khuỷu tay và đầu gối.
Một số ít trường hợp, khi trẻ bị biến chứng nặng, sẽ có những dấu hiệu thần kinh và hệ thống. Đây là những trẻ cần được theo dõi sát và được quyết định điều trị chuyên biệt kịp thời.
4. Nhưng dấu hiệu nào là quan trọng?
Ba mẹ cần nhận biết những dấu hiệu sau để cho trẻ đến tái khám ngay: Sốt từ 39 độ C trở lên, hoặc sốt trên 2 ngày. Ói nhiều. Đừ nhiều. Thở nhanh/thở khó. Quấy khóc, bứt rứt. Giật mình hốt hoảng nhiều lần. Run giật cơ. Yếu chi. Mất thăng bằng khi đi đứng. Da nổi bông. Trường hợp ba mẹ lo lắng điều gì cũng có thể cho trẻ đi tái khám.
5. Điều trị như thế nào?
Như nói ở trên, đây là một bệnh do siêu vi (virus) và thường tự hết, nên đa số các trẻ chỉ cần điều trị hỗ trợ trong thời gian bệnh để chờ tự hết. Trẻ bị viêm loét miệng lưỡi rất đau, vì vậy trẻ rất quấy, than khóc, và không chịu ăn uống gì, do đó dễ bị mất nước, hạ đường huyết. Những trẻ này cần được cho GIẢM ĐAU, và khuyến khích ăn uống chậm, ít lại, nhiều lần hơn, với những thức ăn lỏng, mềm, dễ nuốt, và cho uống nhiều nước. Nhiều trẻ sẽ chịu đồ lạnh hơn, vì có thể làm giảm đau ở vết loét cho trẻ.Không cần tránh các thức ăn, thức uống lạnh, như nước đá, kem, yaourt…, mà ngược lại có thể thử cho trẻ những thức này, để xem trẻ có dễ chịu hơn phần nào hay không.
Đối với trường hợp nghi ngờ bị biến chứng thần kinh, hoặc có những dấu hiệu, tiêu chuẩn, nghi ngờ khả năng hoặc nguy cơ bị biến chứng thần kinh cao, các bác sĩ sẽ quyết định cho trẻ nhập viện để bắt đầu điều trị chuyên biệt, hoặc để có thể theo dõi sát các dấu hiệu nặng nhằm can thiệp kịp thời. Vì khi trẻ bị biến chứng thần kinh, bệnh có thể diễn tiến rất nhanh và rất trầm trọng, mà nếu phát hiện trễ, qua “thời điểm vàng”, các can thiệp chuyên sâu sẽ không được hữu hiệu bằng, và vì vậy, hệ quả bệnh sẽ không được tối ưu.
6. Mắc bệnh rồi có bị lại nữa không?
Một người đã bị bệnh TCM, sau đợt bệnh này, họ chỉ phát triển miễn dịch chống lại virus gây đợt bệnh này mà thôi. Trong khi đó, nhóm enterovirus bao gồm rất nhiều loại virus khác nhau,vì vậy người đó vẫn có thể bị lại bệnh TCM,nhưng gây ra bởi loại virus khác so với virus ban đầu.
7. Phòng bệnh như thế nào?
Hiện nay không có thuốc giết virus đặc hiệu, cũng như không có vắcxin nào để phòng bệnh. Tuy nhiên, nguy cơ nhiễm bệnh có thể giảm đi nếu chúng ta thực hiện tốt những phương pháp vệ sinh như:
– Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, đặc biệt là sau khi chạm vào những vết loét, bóng nước của người bị bệnh, trước khi sửa soạn thức ăn, trước khi ăn, trước khi cho trẻ ăn, và sau khi sử dụng toilet và sau khi thay tả cho trẻ.
– Lau sạch những bề mặt và những đồ chơi có thể “bị nhiễm”, bằng xà phòng và nước trước, sau đó tiệt trùng bằng nước tẩy rửa chứa chlor (chlorine) pha loãng.
– Tránh tiếp xúc gần như ôm hôn, dùng chung muỗng nĩa, chén, với người bệnh.
– Không cho trẻ đi học, hoặc đến các nơi vui chơi, tập trung của các trẻ nhỏ (công viên vui chơi, nhà banh, hồ bơi…) cho đến khi trẻ hết bệnh hoàn toàn (thường sau 7-10 ngày sau khi khởi bệnh).
Dạy trẻ che miệng, mũi khi ho hoặc hắt xì
Bỏ các tả dơ, giấy chùi, khăn ướt khi chăm sóc trẻ bệnh vào bịch rác và đậy lại kỹ càng.
– Giữ sạch nhà cửa, trường học hoặc trường mẫu giáo.
----------------------------------------------------------------------------------------
Những thông tin cần nhớ
– Bệnh TCM thường xảy ra ở trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ. Trẻ càng nhỏ càng dễ bị triệu chứng nặng hơn.
– Đa số trường hợp tự hết trong khoảng 7 ngày, và chỉ cần điều trị hỗ trợ. Chú ý khuyến khích cho trẻ ăn uống để tránh mất nước.
– Một số ít trường hợp có nguy cơ biến chứng thần kinh sẽ được tư vấn nhập viên để theo dõi và can thiệp điều trị kịp thời.
– Trẻ bệnh dễ lây bệnh cho trẻ khác, nhất là trong 7 ngày từ khi phát bệnh, vì vậy nên cách ly trẻ khỏi trường và khu vui chơi.
– Nên theo dõi sát trẻ khi chăm sóc tại nhà, để có thể nhận biết các dấu hiệu nguy hiểm và cho trẻ tái khám đúng lúc.
– Rửa tay và giữ vệ sinh tốt, hạn chế tiếp xúc với dịch cơ thể của người bệnh, là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất.
Bác sĩTrần Thị Huyên Thảo
Nguồn tham khảo:
– World Health Organization: Hand, Foot and Mouth Disease Information Sheet.– World Health Organization: A guide to clinical management and public health response for Hand, Foot and Mouth disease.