Kỳ 27: Johnson nghĩ thế nào nếu con trai sang Nam Việt Nam và chết ở đó ?
Kỳ 26: Westmoreland điện Ngũ Giác Đài: Cần tăng viện 175.000 lính Mỹ bảo vệ Sài Gòn
Cố vấn an ninh Mac Bundy sửng sốt. Ông ta trả lời tôi bằng một văn bản khác “chỉ nhằm mục đích nêu vấn đề mà thôi”.
Ông ta viết: “Phản ứng đầu tiên của tôi như sau: chương trình này - tăng gấp đôi lực lượng Mỹ tại NVN, tăng gấp ban các hoạt động không kích chống lại BV, cùng một kế hoạch phong tỏa hải quân mới mẻ và tối quan trọng - là hấp dẫn đến mức điên cuồng”.
Đặc biệt ông ta, Mac Bundy - nêu lên một vấn đề mà sau này sẽ được chứng minh là căn bản:
“Thực sự có triển vọng gì cho thấy quân đội chính qui Mỹ sẽ có khả năng tiến hành các chiến dịch chống du kích mà có lẽ sẽ vẫn là vấn đề trung tâm tại NVN?”.
Ông ta viện dẫn trường hợp cựu Tổng thống Eisenhower tuyên bố rằng chính viễn tưởng tấn công bằng bom nguyên tử đã dẫn đến sự đình chiến ở Triều Tiên để rồi ông ta gợi ý rằng: “Trúng hay không để chúng ta có thể tiếp xúc với Hà Nội”.
Ngoại trừ việc Mac Bundy ngụ ý đến việc đe dọa sử dụng vũ khí nguyên tử cùng các hậu quả cần xem xét, tôi nhất trí với tất cả các quan điểm của ông ta.
Ba văn bản của George Bundy, của Bill Bundy và của tôi được gửi đến tòa Bạch Ốc ngày 1/7.
Thêm vào đó là văn bản của Ngoại trưởng Dean Rusk nữa. Dean Rusk ít khi viết cho Tổng thống song lần này ông ta lại viết : “Sự vẹn toàn của chính sách can thiệp của Mỹ là cột trụ chính của nền hòa bình trên toàn thế giới. Nếu chính sách đó không còn độ tin cậy nữa, thế giới Cộng sản sẽ rút ra những kết luận có thể dẫn đến sự suy sụp của chúng ta và hầu như chắc chắn sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh đầy thảm họa. Chừng nào mà NVN vẫn còn được chuẩn bị tự bảo vệ họ, chúng ta không thể bỏ rơi họ mà không dẫn đến một thảm họa cho nền hòa bình và cho các quyền lợi của chúng ta trên toàn thế giới”.
Ngày hôm sau, chúng tôi gặp Tổng thống. Ông tỏ ra rũ rượi không biết phải làm gì. Sau thảo luận, ông kết thúc cuộc họp bằng việc bảo tôi sang Sài gòn một lần nữa để phân tích các nhu cầu quân sự cùng với sự Đại sứ Maxwell Taylor và tướng Westmoreland.
Ông cũng gửi Đặc sứ Averell Harriman đi Mos-cow thăm dò khả năng mở lại hội nghị Geneve. Tôi ủng hộ mạnh mẽ chuyến đi này.
Ông cũng bảo Thứ trưởng George Ball xem xét mở các cuộc tiếp xúc trực tiếp với đại diện của Hà nội tại Paris (thêm một bước hướng đến thương thuyết mà tôi rất hoan nghênh).
Tôi gặp tướng Westmoreland tại Sài Gòn hôm 16-17/7/1967 và những mối lo âu cùng hồ nghi của tôi lại càng gia tăng qua các cuộc gặp gỡ.
Tướng Westmoreland nói ông ta cần 175.000 quân từ nay cho đến cuối năm và thêm 100.000 quân nữa cho năm 1968.
Cuối cùng sau một cuộc thảo luận kéo dài, tôi tuyên bố :
“Sau đây là các kết luận của tôi, song tôi muốn quý vị phản biện và chứng minh rằng tôi lầm lẫn :
1) VC và BV có khả năng tuyển thêm nhiều quân hơn mức bình thường. Thành ra, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng gia tăng sức mạnh của chúng ta một cách thích ứng.
2) Trong quá khứ VC đã chẳng cần phải tốn nhiều tiếp tế. Bây giờ và tương lai cũng thế.
3) Do họ tốn ít tiếp tế như thế, các cuộc không kích sẽ không gây thiệt hại cho VC về mặt hậu cần đến mức nặng nề. Nói thế không có nghĩa là chúng ta sẽ ngưng không kích. Tuy nhiên, tôi muốn nói rằng chúng ta sẽ cần thêm nhiều binh sĩ nữa tại NVN để có thể phản công hữu hiệu trên bộ”.
Sau đó, tôi tìm hiểu về vai trò mà quân đội Mỹ sẽ đảm nhận tại NVN.
Hai tuần trước đây, tôi đã chỉ thị cho Bộ Tham mưu liên quân nghiên cứu chiến lược và chiến thuật quân sự cần thiết để đảm bảo cho quân đội Mỹ giành được chiến thắng trong điều kiện chúng ta có thể làm bất cứ gì chúng ta muốn.
Tôi nhấn mạnh phải nghiên cứu thật tỏ tường về mặt chiến lược cần theo đuổi.
Tôi nhận được bản nghiên cứu dầy 128 trang này hôm tôi bay đi Sài Gòn…
Danh Đức dịch (Tiêu đề của Một Thế Giới)